Trong thời kỳ mang thai, nhu cầu về hormone tuyến giáp, đặc biệt là hormone T4 (L-Thyroxin), có thể thay đổi. Việc theo dõi và điều chỉnh liều lượng theo hướng dẫn của bác sĩ giúp duy trì mức hormone ổn định và ngăn chặn những tác động tiêu cực đối với sức khỏe của mẹ và thai nhi. Dưới đây là 5 thay đổi quan trọng trong điều trị bệnh tuyến giáp mà phụ nữ mang thai cần lưu ý:
Phần lớn bệnh nhân bổ sung hormone tuyến giáp sử dụng L-Thyroxin (LT4). Một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân dùng hormone tuyến giáp dạng kết hợp T4 + T3 (liothyronine). Những bệnh nhân này khi muốn mang thai cần được tư vấn rằng L-Thyroxin là thuốc tốt nhất để điều trị suy giáp trong thai kỳ. Họ nên được chuyển sang L-Thyroxin trước khi thụ thai một thời gian để điều chỉnh liều.
Hormone tuyến giáp cần thiết cho thai kỳ bình thường và sự phát triển não bộ của thai nhi. Trong thời kỳ đầu mang thai, sự phát triển của nhau thai và bào thai hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào hormone tuyến giáp của mẹ, vì sự trưởng thành vùng dưới đồi - tuyến yên - tuyến giáp của thai nhi không xảy ra cho đến tuần thai thứ 18.
Do T3 không ngấm được nhiều vào hệ thần kinh trung ương của thai nhi, nên phần lớn T3 của thai nhi có nguồn gốc từ sự chuyển đổi T4 của mẹ. Các chế phẩm tuyến giáp có chứa T4 và T3, với lượng T3 quá nhiều so với T4 (tức là, tỷ lệ T4/T3 là 4,2/1, so với 14/1 trong tuyến giáp người bình thường) sẽ có nguy cơ tiềm tàng bị thiếu T4 cung cấp cho não thai nhi.
Ở người bình thường, tuyến giáp sẽ phì đại trong thời kỳ mang thai do kích thích của hormon TSH từ tuyến yên và beta-hCG của nhau thai để sản xuất nhiều hormone tuyến giáp hơn, đáp ứng nhu cầu tăng lên của thai nhi. Vì vậy những bệnh nhân suy giáp phải tăng liều hormone tuyến giáp để đáp ứng nhu cầu gia tăng này.
Ngay khi biết có thai, các bệnh nhân cần tự tăng liều L-Thyroxin và thông báo ngay cho bác sĩ để được kiểm tra chức năng tuyến giáp. Họ có thể uống thêm 2 viên mỗi tuần khi có thai. Ví dụ, nếu một bệnh nhân đang dùng 100 µg mỗi ngày trước khi mang thai, thì hãy tăng liều lên 2 viên 100 µg vào thứ Tư và Chủ nhật, tương đương với việc tăng 20% -30% liều hàng tuần. Họ càn được theo dõi các xét nghiệm chức năng tuyến giáp khoảng 4 tuần một lần cho đến giữa thai kỳ, khi nhu cầu hormone tuyến giáp tăng lên có xu hướng ổn định. Sau đó bệnh nhân có thể được theo dõi thưa hơn và có ít nhất một lần sau khi tuổi thai được 30 tuần.
Hormone tuyến giáp là cực kỳ cần thiết cho quá trình hình thành, phân chia và phát triển của thai nhi, trong đó có sự phát triển của não bộ. Tuy nhiên, trong khoảng 13-14 tuần đầu thai kỳ, thai nhi chưa có tuyến giáp nên lượng hormone giáp cần cho sự phát triển của thai là do từ mẹ cung cấp. Vì vậy nếu mẹ bị suy giáp mà không được bù hormone thì đứa trẻ chắc chắn sẽ bị thiếu hormone giáp và có nguy cơ cao bị một số dị tật hoặc ảnh hưởng đến trí tuệ.
Cần nhấn mạnh là thuốc hormone tuyến giáp (Levothyrox, Berlthyrox, Tamidan, Levosum…) rất an toàn cho thai nhi nên người mẹ hoàn toàn có thể và cần tiếp tục dùng thuốc này trong suốt quá trình mang thai và cho con bú.
Đa số bệnh nhân mắc bệnh Basedow trong thai kỳ được điều trị bằng thuốc kháng giáp, là methimazole (MMZ) hoặc propylthiouracil (PTU). MMZ được sử dụng phổ biến nhất ở bệnh nhân không mang thai vì nó có thể được dùng một lần mỗi ngày, so với ba lần mỗi ngày cho PTU. PTU cũng liên quan đến tăng nguy cơ nhiễm độc gan. Cả MMZ và PTU đều có liên quan đến dị tật bẩm sinh trong thai kỳ, với tỷ lệ 2%-4%. Tuy nhiên, PTU được ưu tiên hơn trong ba tháng đầu vì nguy cơ bị các dị tật bẩm sinh ít nghiêm trọng hơn so với MMZ, và có nhiều khả năng có thể điều chỉnh được bằng phẫu thuật.
Thai nhi dễ bị tác dụng phụ nhất của thuốc kháng giáp trong khoảng tuần thứ 6 đến tuần thứ 10, khi các hệ cơ quan đang hình thành. Chuyển sang PTU trước khi mang thai sẽ giúp tránh thai nhi tiếp xúc với MMZ trong giai đoạn đầu thai kỳ. Đối với phụ nữ đang dự tính mang thai, hãy cân nhắc chuyển từ MMZ sang PTU khi bệnh nhân thôi sử dụng biện pháp tránh thai.
Liệu pháp ức chế TSH là một thành phần quan trọng trong điều trị ung thư tuyến giáp, thường mục tiêu TSH sẽ là ở mức thấp của bình thường. Trong thai kỳ, phần lớn các nghiên cứu không chứng minh được nguy cơ gia tăng các biến chứng ở mẹ hoặc thai liên quan đến cường giáp dưới lâm sàng (TSH thấp). Lưu ý, ở những phụ nữ không có tiền sử bệnh tuyến giáp, nồng độ TSH có thể thấp hơn giới hạn bình thường trong thai kỳ. Do đó, mức độ ức chế TSH tương tự được duy trì trước khi mang thai có thể được tiếp tục một cách an toàn trong thai kỳ. Để duy trì mức độ ức chế trước khi thụ thai, những phụ nữ đã cắt tuyến giáp sẽ cần tăng liều hormone L-Thyroxin vì nhu cầu hormone tuyến giáp trong thai kỳ cao hơn.
Sau đẻ, phụ nữ nên quay lại liều L-Thyroxin như trước khi mang thai. Tiếp đó nên được xét nghiệm lại vào 6 tuần sau khi đẻ và điều chỉnh nếu cần thiết. Khoảng 5% phụ nữ và 50% những người có tăng kháng thể Anti-TPO có thể bị viêm tuyến giáp sau sinh (PPT). Lưu ý là những người có tăng Anti-TPO nhưng vẫn còn bình giáp trong thai kỳ có nguy cơ mắc viêm tuyến giáp sau đẻ cao gấp 4 lần so với những người cần điều trị L-Thyroxin. PPT thường xảy ra khoảng 6-12 tuần sau đẻ, diễn biến qua các giai đoạn (1) cường giáp kéo dài vài tuần đến vài tháng, (2) tiếp theo là giai đoạn bình giáp ngắn, và (3) giai đoạn suy giáp. Phần lớn trở về bình giáp sau 1 năm sau khi đẻ. Nói chung không cần điều trị vì PPT thường thoáng qua và tự khỏi. Tuy nhiên, có 20%-50% phụ nữ có thể bị suy giáp vĩnh viễn và cần phải điềut rị L-Thyroxin. Khoảng 30-70% những phụ nữ này có thể bị lại PPT ở lần mang thai sau đó.
Những phụ nữ bị Basedow sẽ thuyên giảm trong nửa sau của thai kỳ, nhưng dễ bị tái phát trong thời kỳ hậu sản khi hệ thống miễn dịch được phục hồi. Những người này sẽ cần điều trị lại bằng thuốc kháng giáp, thường là MMZ. Phụ nữ dùng MMZ có thể cho con bú một cách an toàn, mặc dù liều MMZ nên được duy trì ở mức <20 mg mỗi ngày. Một số phụ nữ có thể mắc bệnh Basedow mới khởi phát trong thời kỳ hậu sản.
Ngoài 5 thay đổi trong điều trị bệnh tuyến giáp cho phụ nữ mang thai nêu trên thì chế độ dinh dưỡng khoa học đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình điều trị. Chính vì vậy việc lựa chọn các Thực phẩm bổ sung được thiết kế cân bằng các nhóm dưỡng chất như Edally Healthy Meal là vô cùng cần thiết để đảm bảo sức khỏe của mẹ cũng như sự phát triển của thai nhi được tốt nhất.
Link sản phẩm: https://edallyhanquoc.vn/thuc-pham-bo-sung-edally-healthy-meal-cookies-cream-taste.html
Mọi thông tin chi tiết về sản phẩm cũng như chính sách đại lý xin vui lòng liên hệ edallyhanquoc.vn qua Hotline/Zalo: 0902.158.663 để được tư vấn và hỗ trợ nhanh nhất bạn nhé.
Chia sẻ bài viết:
건강미인의 에너지 비법
TRUNG TÂM TINH DẦU THÔNG ĐỎ HÀN QUỐC EDALLY BH
BT 09 - KĐT Resco, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam
Phố Tăng, Đông Hưng, Thái Bình, Việt Nam
0902.158.663 / 0908.062.668
edallyhq@gmail.com