Xuất huyết não là nguyên nhân gây tử vong cao nhất (35- 52%) trong đó 50% xảy ra trong hai ngày đầu. Tỷ lệ đột quỵ bao giờ cũng cao hơn nhồi máu cơ tim. Thời gian nằm viện cũng lâu hơn, khả năng tàn phế rất lớn.
Có thể nói, công tác cấp cứu đòi hỏi người thực hiện không chỉ cần kiến thức chuyên môn vững vàng, tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt huyết, mà cần phải chuyên nghiệp hơn...
Đột quỵ não là tình trạng cấp cứu y khoa. Việc chẩn đoán nhanh và chính xác quyết định đến hiệu quả điều trị, đặc biệt trong “thời gian vàng” (3 - 4,5 giờ đầu).
Ở nơi xảy ra đột quy do thiếu máu não cấp có thể dựa vào sự xuất hiện đột ngột các triệu chứng:
Méo mặt.
Yếu tay, yếu chân.
Nói ngọng.
Chỉ cần thấy một trong ba triệu chứng là phải đưa bệnh nhân đi cấp cứu. Tốt nhất là trong giờ đầu, thời gian là não (Time is brain). Có thể tóm tắt bằng chữ FAST. Nên phổ biến cách phát hiện các triệu chứng trên cho các tình nguyện viên, hội viên chữ thập đỏ và nhân dân nói chung.
Không cho bệnh nhân ăn uống bất kỳ thứ gì (thức ăn, thuốc) nếu có hiện tượng sặc khi cho uống 1/3 thìa con nước sạch.
Nếu bệnh nhân hôn mê nhanh, có khả năng bệnh nhân xuất huyết não.
Kiểm tra chẩn đoán:
Khám chuyên khoa thần kinh.
Chụp cắt lớp vi tính sọ não hoặc cộng hưởng từ.
Xem xét khả năng dùng thuốc tiêu sợi huyết cho bệnh nhân nhồi máu não nếu bệnh nhân đến khoảng 3 - 4,5 giờ đầu.
Cho bệnh nhân đột quy có hôn mê, bắt đầu bằng cấp cứu cơ bản: A, B, C. Bảo đảm oxy hóa máu và oxy hoá tế bào não, về nguyên tắc là phải bảo vệ đường hô hấp và bảo đảm thông khí tốt. Khi vận chuyển cũng phải đảm bảo nguyên tắc ABC.
Nhồi máu não nhẹ: đầu cao 30° ngày đầu, 45° ngày thứ 2, 90° ngày thứ 3 trong vài giờ, ra khỏi giường các ngày sau.
Nhồi máu não nặng, xuất huyết nặng và trung bình:
nằm thẳng không gối hoặc đầu cao 30° (kê chân giường)
không cho bệnh nhân ngồi 90° nếu có hạ huyết áp tư thế (trên 20 mmHg).
Nếu rối loạn ý thức tiến triển xấu hoặc có các rối loạn chức năng thần kinh nhiều, phải can thiệp mạnh hơn (phải dùng các biện pháp xâm nhập). Nếu có suy hô hấp, mạch nhanh, nhịp thở trên 25 lần, xanh tím, hôn mê sâu hơn...
hoặc có sặc thức ăn, dịch vị..., phải đặt ống nội khí quản ngay. Chỉ định thông khí nhân tạo khi PaO2 < 60 mmHg hay PaCO2 > 50 mmHg. Nếu không có phương tiện đo khí máu, có thể sử dụng Sp02. Nếu sau đặt ống nội khí quản và thở oxy mà Sp02 vẫn dưới 90% nên xem xét thông khí nhân tạo.
Đặt ống nội khí quản qua đường miệng phải được thực hiện cẩn thận, với những quy trình kinh điển như thở oxy mũi trước với oxy 6 lít/phút trong 10 phút và sử dụng các thuốc như atropin, thiopental, midazolam, propofol và succinylcholin để tránh phản xạ gây rối loạn nhịp tim hoặc rối loạn huyết áp. Cần thận trọng khi làm thủ thuật, tránh cho bệnh nhân hít phải dịch vị. Các bệnh nhân đặt ống
NKQ phải được đặt thêm ống thông dạ dày qua đường mũi hoặc đường miệng để hạn chế hít phải dịch vị và cuff NKQ phải được kiểm tra 6 giờ 1 lần. Nếu có biến chứng phổi (viêm phổi bệnh viện), cần mở khí quản sớm hơn. Mọi bệnh nhân đột quỵ có rối loạn hô hấp phải được thở oxy. Nếu xét thấy trong vòng 10 ngày, người bệnh còn hôn mê, chưa rút được ống nội khí quản thì nên mở khí quản sớm.
Chỉ định:
Phù não, tăng áp lực nội sọ.
Hôn mê, rối loạn ý thức (Glasgow < 9 điểm).
Ứ đọng đờm dãi, trào ngược dịch vị.
Viêm phổi bệnh viện:
Rối loạn hô hấp, giảm thông khí phế nang (PaO2 < 60 mmHg, PaCO2 > 50 mmHg). Nhịp thở Cheyne-Stokes.
Muc tiêu:
Chống suy hô hấp.
Chống phù não, tăng áp lực nội sọ bằng phương thức thở có tăng thông khí.
Tăng thông khí nhẹ sao cho PaCO2 = 30-35 mmHg với VT=10 mL/kg, TS = 12-14, FiO2 0,4 (oxy 40%), để đạt được mục tiêu giảm áp lực nội sọ.
Sử dụng các thuốc giãn cơ: Gây liệt thần kinh cơ bằng vecuronium hoặc phối hợp với an thần vừa đủ có thể hạ áp lực nội sọ bằng cách phòng ngừa tăng áp lực trong lồng ngực và tăng CVP do ho, gồng cứng, hút đờm hay chống máy. Cũng có thể xịt lidocain trước khi hút đờm.
Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của đột quỵ, đồng thời cũng thường gặp trong giai đoạn cấp. Việc xử trí huyết áp ở bệnh nhân đột quỵ não rất phức tạp vì: Nếu giảm huyết áp quá nhanh => giảm tưới máu não, làm ổ nhồi máu lan rộng. Nếu huyết áp quá cao => tăng nguy cơ chảy máu não, phù não, xuất huyết chuyển dạng. Do đó, chiến lược điều trị khác nhau giữa đột quỵ thiếu máu não và đột quỵ xuất huyết não.
Phải dựa vào các yếu tố cá nhân như: tăng huyết áp mạn tính, tăng áp lực nội sọ (TALNS), tuổi tác, nguyên nhân xuất huyết dự đoán và khoảng cách thời gian xảy ra đột quỵ. Nói chung, các khuyến cáo điều trị tăng huyết áp ở bệnh nhân xuất huyết não mạnh mẽ hơn là điều trị tăng huyết áp ở bệnh nhân thiếu máu não cấp. Lý do phải hạ huyết áp là để giảm nguy cơ tiếp tục xuất huyết não từ các động mạch nhỏ và tiểu động mạch (hạ huyết áp trong 6 giờ đầu cho xuất huyết não, trong vài ngày cho nhồi máu não cấp).
Áp lực tưới máu não CPP phải được duy trì ở mức > 70 mmHg. Phải tránh để huyết áp trung bình >110 mmHg ngay sau khi phẫu thuật sọ não. Nếu huyết áp tâm thu xuống dưới 90 mmHg, cần cho thuốc vận mạch.
Thuốc hạ áp:
Labetalol 5-20 mg/giờ tiêm tĩnh mạch từng liều 5 mg hay truyền liên tục 2 mg/phút (tối đa 300 mg/ngày).
Esmolol: 250 g/kg liều tấn công; 25-300 ug/kg liều duy trì.
Nitroprusside: 0,1-10 g/kg/phút hoặc nicardipin 5-15 mg/giờ TM.
Hydralazine 5-20 mg/ mỗi 30 phút.
Enalapril: 0,625-1,25 mg/6 giờ đến 5 mg theo nhu cầu.
Nếu huyết áp tâm thu <180 mmHg hay tâm trương <105 mmHg, không dùng thuốc hạ áp. Việc lựa chọn còn phụ thuộc vào các chống chỉ định khác (thí dụ, tránh dùng labetalol cho bệnh nhân hen phế quản).
Nếu đo được áp lực nội sọ thì áp lực tưới máu não nên được giữ ở mức trên 70 mmHg.
Tăng huyết áp có thể là nguyên nhân gây đột quỵ (tăng huyết áp gây nhồi máu não, xuất huyết não). Thường là cơn tăng huyết áp với con số huyết áp cao tâm thu > 200, tâm trương > 110, huyết áp trung bình trên 130. Bên cạnh nguy cơ xuất huyết não, còn có các nguy cơ khác như suy thận, suy tim. Nếu không làm hạ huyết áp, bệnh nhân có thể bị phù phổi cấp do suy tim trái cấp, suy thận cấp do hoại tử vỏ thận. Để xác định là tăng huyết áp ác tính, làm thêm xét nghiệm điện tim, protein niệu, creatinin máu, BNP.
Trong trường hợp này, phải cho thuốc hạ áp để giảm huyết áp trong 6 giờ đầu nếu là xuất huyết não, trong 24 giờ đầu đến vài ngày nếu là nhồi máu não.
Tăng huyết áp có thể là phản ứng. Có nhiều nguyên nhân liên quan đến THA phản ứng:
Tăng huyết áp do phản xạ Cushing (tăng HA do tăng ALNS) trên 60% đột quỵ có THA > 160 mmHg.
Tăng huyết áp phản ứng do thiếu chăm sóc: Tụt lưỡi, sặc thức ăn, trào ngược dịch vị, ứ đọng đờm dãi, truyền dịch quá nhiều mà không theo dõi, co giật, bàng quang căng to thường có ở người cao tuổi (khám thần kinh rất kỹ nhưng không kiểm tra cầu bàng quang, cho là đái ít lại truyền thêm dịch).
Tăng huyết áp phản ứng do nhồi máu cơ tim xảy ra cùng lúc hay ngay sau đó. Dùng thuốc hạ áp trong các trường hợp trên thì bệnh nhân sẽ trụy mạch.
180/100 nếu có tiền sử tăng huyết áp.
160/95 nếu không có tiền sử tăng huyết áp.
Nếu dùng thuốc tiêu sợi huyết phải hạ huyết áp xuống < 185/110 mmHg trước điều trị và duy trì trong 24 giờ đầu (N. Eng J Med, 1995-333; 1581-1587).
Điều trị tụt huyết áp trong đột quỵ não là một vấn đề khó và hiếm gặp hơn so với tăng huyết áp, nhưng lại rất nguy hiểm, vì huyết áp thấp có thể làm giảm tưới máu não, khiến vùng tổn thương lan rộng, tăng nguy cơ nhồi máu não diện rộng hoặc tử vong. Dưới đây là các nguyên tắc và phương pháp điều trị:
Dùng nifedipin nhanh trên 10 mg một lần, nhiều lần mà không kiểm soát huyết áp.
Không bù dịch đầy đủ cho bệnh nhân (là nguyên nhân chính).
Dùng nhiều thuốc lợi tiểu (furosemid, mannitol).
Không cho bệnh nhân hôn mê ăn qua ống thông dạ dày, để bệnh nhân đói gây hạ đường máu.
Chảy máu dạ dày do stress.
Nhiễm khuẩn bệnh viện.
Phản vệ thường là với kháng sinh loại betalactamin.
Tắc đờm dãi, suy hô hấp, bắt đầu gây tăng huyết áp sau gây trụy mạch.
Bù dịch là biện pháp xử trí hàng đầu. Có thể dùng dung dịch mặn đẳng trương hay dung dịch keo dưới sự kiểm soát của CVP. Nếu vẫn còn tụt huyết áp sau khi bổ sung dịch thì phải dùng các thuốc vận mạch, đặc biệt là khi huyết áp tâm thu xuống dưới 90 mmHg.
Giới thiệu một số thuốc có thể dùng được để nâng huyết áp cho người bị đột quy não:
Phenylephrin: 2-10 µg/kg/phút.
Dopamin: 2-20 µg/kg/phút.
Noradrenalin: từ 0,05-0,2 µg/kg/phút.
Trong đột quỵ nhồi máu não, mục tiêu điều trị là tái tưới máu sớm, ngăn ngừa cục máu đông tiến triển, giảm nguy cơ tái phát. Các nhóm thuốc thường được sử dụng gồm:
Đột quy do thiếu máu não có thể xuất hiện tiếp theo nhồi máu cơ tim, vì vậy dùng thuốc chống đông như warfarin một cách thận trọng, dùng thuốc tiêu sợi huyết là hợp lý (y học chứng cớ mức độ I, độ khuyến cáo A) với INR = 1,5 - 2.
Phải coi chừng biến chứng xuất huyết não có thể xảy ra khi INR >3 và cần tôn trọng các chống chỉ định dùng thuốc tiêu sợi huyết và warfarin: >80 tuổi, tăng HA (tâm thu > 185, tâm trương >110), đến muộn quá 4,5 giờ, co giật, chảy máu dạ dày hay tiết niệu, động kinh.
Aspirine: 100 mg là thuốc thông dụng nhất với hiệu quả được công nhận. Nếu có nuốt sặc, thay aspirin bằng Aspegic truyền tĩnh mạch.
Clopidogrel (Plavix) 75 mg/ ngày tác dụng ngang aspirin nhưng lại có tác dụng tốt hơn với mạch vành và mạch ngoại biên.
Warfarin làm giảm 60% nguy cơ đột quỵ ở bệnh nhân có rung nhĩ, tốt hơn so với aspirin. Không dùng cho người lớn trên 65 tuổi, có tăng huyết áp. Nếu dùng cũng không nên kéo dài quá 14 ngày kể từ khi bắt đầu đột quỵ.
Alteplase (Actilyse), được khuyến cáo dùng cho thiếu máu não cấp khi bệnh nhân < 80 tuổi, đến sớm 3 giờ đầu, huyết áp không tăng quá 185/110.
Dù là đái tháo đường type 1 hoặc 2 đang dùng thuốc viên hạ đường máu, khi có đột quỵ phải dùng insulin để hạ nhanh đường máu, vì tăng đường máu sẽ mau chóng làm chết tế bào não ở vùng tranh tối tranh sáng (sản xuất ra lactate ở vùng thiếu máu não do chuyển hoá glucose bằng đường yếm khí).
Dùng insulin nhanh khi xét nghiệm có tăng đường máu trên 10 mmol/L (insulin 1 đv/10 kg TM, 2 giờ sau làm lại xét nghiệm).
Nói chung nên duy trì đường máu lúc đói ở mức 8-10 mmol/L hay 160 mg% (8,8 mmol/L). Bắt đầu dùng insulin từ 160-185 mg%. Sau đó, dùng insulin bán chậm, phối hợp nhanh và chậm. Khi bệnh nhân đã ổn định, uống thuốc viên hạ đường huyết như metformin, rosiglicason, glicazide.
Kiểm tra chặt chẽ đường máu mao mạch. Kiểm tra các mạch khác: mạch vành, chi, thận.
Luôn chú ý đến khả năng hạ đường máu (hôn mê đột ngột ít có nghĩa là xuất huyết não lại). Khi thấy bảng điểm Glasgow hạ thấp, phải kiểm tra đường máu lại.
Nghĩ tới hạ đường máu ở bệnh nhân đột quy khi bệnh nhân đột nhiên yếu đi, nằm lả, thở yếu ớt, thậm chí ngừng thở, rối loạn ý thức đột ngột, qua thăm hỏi gia đình và nhân viên, thấy có bệnh nhân không được ăn uống đầy đủ một vài hôm trước, đang dùng insulin hoặc các thuốc hạ đường máu.
Kích thích bệnh nhân đáp ứng yếu ớt, phản xạ ánh sáng yếu, đồng tử thường co, mạch thường nhanh hơn trước, có khi trụy mạch, co giật.
Xử trí: Lấy máu xét nghiệm đường máu rồi truyền glucose 20% tĩnh mạch 50-100 mL.
Các biện pháp đơn giản làm giảm áp lực nội sọ: đầu cao, an thần, giảm đau, sau mới là mannitol và tăng thông khí nhưng mannitol có thể biến chứng giảm thể tích máu và giảm dòng chảy não. Phải hạ đường máu xuống dưới 300mg% để đạt đường máu bình thường. Sau 2-3 ngày, xuất huyết não đã ổn định, phải dùng enoxaparin.
Tăng áp lực nội sọ có thể xuất hiện ngay sau khi có xuất huyết não. Đột quy do thiếu máu não cục bộ có thể gây phù não sau vài ngày (ý thức xấu đi, đau đầu, nôn... CT. Scan cho thấy rõ phù não).
Theo định nghĩa, tăng ALNS khi ALNS > 20 mmHg quá 5 phút. Mục tiêu điều trị cần đạt là ALNS xuống dưới 20 mmHg và áp lực tưới máu não trên 70 mmHg. Các thông số trên có thể kiểm soát được nếu khoan hoặc mở hộp sọ lấy khối máu tụ, đặt ống dẫn lưu não thất hoặc nhu mô não. Thủ thuật này đã có thể thực hiện được ở các trung tâm hồi sức cấp cứu (HSCC) ở Việt Nam.
Mannitol vẫn là thuốc có tác dụng nhất để điều trị phù não và tăng ALNS nhưng cũng chỉ nên dùng khi có chỉ định.
Cách dùng: mannitol liều đầu: 0,5-1 g/kg/ truyền tĩnh mạch trong 30 phút, tiếp theo: 0,25-0,5g/ kg mỗi 4-6 giờ.
Mannitol dùng lâu có thể ứ đọng ở tổ chức não hoại tử, gây phản tác dụng.
Corticoid không có tác dụng trong đột quy lại có nguy cơ gây bội nhiễm và gây tăng đường máu rất nguy hiếm cho vùng não bị tổn thương (vùng tranh tối tranh sáng).
Thiopental truyền tĩnh mạch ngắt quãng hoặc liên tục 5-10 mg/kg/ngày có tác dụng giảm áp lực nội sọ nhưng làm bệnh nhân hôn mê, natriclorid 3% hiện nay được ưa dùng hơn mannitol
Hút khối máu tụ khi đã hình thành bằng máy khoan sọ.
Đặt ống thông não thất để dẫn lưu nước não tủy. Thủ thuật này có thể làm ở khoa Cấp cứu hoặc HSCC.
Mở hộp sọ rộng có kết quả tốt để chống phù não và tăng áp lực nội sọ nhưng cần có điều kiện bảo đảm vô trùng và dùng kháng sinh phổ rộng. Chỉ có thể áp dụng ở những trung tâm phẫu thuật sọ não hiện đại.
Xuất huyết tiểu não >3 cm hoặc có chèn ép não hay não úng thuy cần phải can thiệp phẫu thuật ngay.
Mục tiêu của kiểm soát lượng dung dịch vào ra là bảo đảm thể tích máu bình thường. Lượng dịch đưa vào tương đương với thể tích nước tiểu cộng với 500 mL nước bốc hơi qua da và hơi thở, cộng với 300 mL cho mỗi độ thân nhiệt tăng. Bảo đảm cân bằng điện giải: Na, K, Ca, Cl, Mg. Hạ Na máu có thể do tăng tiết ADH do dùng insulin và glucose, do nuôi dưỡng hoàn toàn bằng các bột dinh dưỡng như Ensure.
Đo các khí và pH máu để cân bằng kiềm toan hằng ngày.
Hạ thân nhiệt xuống dưới 37°C nhưng không dưới 32°C: Paracetamol và chăn lạnh được chỉ định dùng ngay khi nhiệt độ > 38,5°C. Trên bệnh nhân sốt nghi ngờ có nhiễm khuẩn, phải cấy tìm vi khuẩn ở máu, các dịch tiết, thay các ống thông tĩnh mạch, bàng quang, cấy đầu ống thông và phải dùng kháng sinh. Nếu bệnh nhân đang được đặt ống thông não thất, phải cấy và xét nghiệm tế bào nước não tuy.
Chống mê sảng, giãy giụa: Dùng benzodiazepin tác dụng ngắn hay propofol, có thể phối hợp các thuốc giảm đau.
Phòng chống tắc mạch phổi: Tắc mạch phổi gặp khi bệnh nhân đang hồi phục, nhất là các bệnh nhân liệt nửa người. Dùng enoxaparin (Lovenox) 20 mg/12 giờ tiêm dưới da.
Vệ sinh thân thể, xoa bóp, chống loét: Dùng túi nước, đệm nước, bôi Sanyrene vào các điểm tựa. Tập vận động sớm, ngay sau ngày đầu cho thể nhẹ. Đầu cao 30° ngày đầu, 45° ngày thứ 2, 90° vài giờ ngày thứ 3, ra khỏi giường ngày thứ 4. Thể nặng cần thận trọng hơn. Cần kiểm tra hạ huyết áp tư thế trước khi tập (> 20 mmHg thì chưa tập).
Phòng tránh co giật: Co giật gây tổn thương tế bào thần kinh và làm mất ổn định một tình trạng cấp cứu nguy kịch, vì vậy phải được xử trí tích cực.
Xử trí rối loạn nuốt và hít phải dị vật vào phổi: Đây là biến chứng nguy hiểm nhất. Có 5 dấu hiệu: nghẹn, ho, nói khàn, không nhai được, thở gấp khi nuốt. 2/3 trường hợp hít phải dị vật sau đột quỵ không được phát hiện. Chỉ khi bệnh nhân nuốt nhanh được 50 mL nước mà không sặc mới không phải đặt ống thông dạ dày.
Các thuốc bảo vệ thần kinh cho người bị đột quỵ não: Các thuốc bảo vệ thần kinh dùng cho người bị đột quỵ não thường ít kết quả vì bệnh nhân đến muộn.
Cerebrolysin cho người bị đột quỵ não: Trên thực nghiệm có tác dụng nuôi dưỡng hồi phục và phát triển nguyên bào (neuroblast) vùng tranh tối tranh sáng nhưng cần sử dụng sớm: tiêm tĩnh mạch chậm 30 mL ngay sau khi xảy ra đột quỵ. Sau đó, tiêm 30 mL/24 giờ tiếp theo trong 20 ngày.
Đột quỵ không loại trừ một ai. Do đó để hạn chế thấp nhất nguy cơ xảy ra đột quỵ, mỗi chúng ta bên cạnh việc xây dựng chế độ ăn uống lành mạnh, thường xuyên luyện tập thể dục, Tầm soát sức khỏe định kỳ 6 tháng/ lần để chủ động phát hiện sớm những yếu tố nguy cơ tiềm ẩn có thể dẫn đến đột quỵ và chủ động làm sạch mạch máu, ổn định huyết áp, tăng cường sức bền thành mạch bằng việc sử dụng mỗi ngày 2 viên Tinh dầu thông đỏ Edally Pine Needle Capsule để đẩy lùi nguy cơ đột quỵ và nhồi máu cơ tim...
Link sản phẩm: https://edallyhanquoc.vn/tinh-dau-thong-do-edally-han-quoc-new.html
Mọi thông tin chi tiết về sản phẩm cũng như chính sách đại lý xin vui lòng liên hệ edallyhanquoc.vn qua Hotline/Zalo: 0902.158.663 để được tư vấn và hỗ trợ nhanh nhất.
Fud Plum and Jerome B.Posner: The diagnosis of Stupor and Coma. Edition 3.
Chia sẻ bài viết:
건강미인의 에너지 비법
TRUNG TÂM TINH DẦU THÔNG ĐỎ HÀN QUỐC EDALLY BH
BT 09 - KĐT Resco, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam
Phố Tăng, Đông Hưng, Thái Bình, Việt Nam
0902.158.663 / 0908.062.668
edallyhq@gmail.com