Ngoài các tế bào hắc tố (melanocyte) tăng chức năng, da bị nám biểu hiện một loạt các thay đổi về cấu trúc và chức năng ở lớp biểu bì (epidermis), màng đáy (basement membrane, BM) và lớp lớp bì nông (upper dermis), tương tác để tạo ra và duy trì một kiểu hình tăng hắc tố khu trú.
Nám da là một rối loạn đa yếu tố ở những người dễ bị mắc có yếu tố di truyền, được đặc trưng bởi một kiểu hình da do tiếp xúc với các yếu tố bên ngoài (như tiếp xúc với ánh nắng mặt trời) và các yếu tố nội tiết tố (như hormone giới tính và mang thai), cũng như tình trạng viêm của da.
Cơ sở di truyền của nám da được hỗ trợ bởi sự xuất hiện của nó ở những người họ hàng cấp một, được báo cáo khoảng 4-61% số bệnh nhân ở Brazil, gồm cả chị em sinh đôi giống nhau, trong khi tỷ lệ phổ biến dự kiến ở người lớn trong cùng khu vực là 16-28%.
Sắc tố da tuân theo kiểu di truyền đa gen, điều này giải thích sự khác biệt về kiểu hình ở các loài động vật có vú và các nhóm quần thể người. Một phân tích phiên mã so sánh nám da mặt và vùng da lân cận xác định được 279 gen biểu hiện khác nhau.
Nám chỉ xảy ra ở vùng da tiếp xúc với ánh sáng, khởi phát muộn ở những vùng da sẫm màu hơn, nặng hơn sau khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời và phổ biến hơn ở các quốc gia nhiệt đới, nên việc tiếp xúc với ánh nắng mặt trời được coi là yếu tố môi trường quan trọng nhất trong cơ chế bệnh sinh.
Bất kỳ bức xạ nào cũng có thể tương tác với mô sinh học, có tác động thay đổi theo bước sóng, cường độ, độ xuyên qua da, mức độ phơi nhiễm và tính nhạy cảm của từng cá nhân (chẳng hạn như loại da và vị trí cơ thể). Bức xạ tia cực tím (UVR) kích thích trực tiếp quá trình tạo melanin trong melanocyte và ảnh hưởng đến keratinocyte, tế bào mast (mast cell, MC) và nguyên bào sợi, là những tế bào điều chỉnh cận tiết quá trình tạo melanin. Tuy nhiên, các tác động khác nhau được tạo ra trên da bởi bức xạ có các bước sóng khác nhau.
UVB có tác dụng chính trên lớp biểu bì và màng đáy, trong khi UVA tác động đến lớp bì nông. Tiếp xúc lâu dài với tia UV dẫn đến lão hóa da, stress oxy hóa và viêm góp phần vào quá trình hình thành melanin kéo dài được quan sát thấy ở nám da. UVB làm tăng hoạt động của các melanocyte, dẫn đến việc chuyển giao melanosome sang tế bào sừng hiệu quả hơn. Cuối cùng, UVB gây giải phóng các chất trung gian gây viêm, như prostaglandin và yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (vascular endothelial growth factor, VEGF), kích thích tăng sinh nội mô.
So với UVB, UVA ít gây đỏ da hơn, nhưng lại hiệu quả hơn trong việc gây sạm da (ngay tức thời và kéo dài) và làm rám nắng kéo dài, đặc biệt là ở những người có làn da sẫm màu. Không giống như UVB, tác động của UVA lên các phân tử sinh học chính của da là không trực tiếp. Năng lượng được hấp thụ bởi các chromophore được chuyển đổi để tạo ra các loại phản ứng dẫn đến stress oxy hóa. Ngoài da, tiếp xúc với tia UVA cũng có thể gây ra stress oxy hóa toàn thân.
Tiếp xúc với ánh nắng mặt trời lâu dài cũng gây ra một kiểu hình lão hóa trong nguyên bào sợi, với sự bài tiết tích cực của các yếu tố tạo melanin và tiền viêm. Tế bào mast thoái hóa dưới các kích thích nhiệt, vật lý và tia UV, giải phóng các chất trung gian hoạt tính sinh học thúc đẩy hình thành melanin và góp phần gây tổn thương cho lớp bì nông và màng đáy.
Ánh sáng khả kiến (visible light, VL) là bức xạ không ion hóa xuyên qua lớp bì sâu và lớp dưới da. Sự tạo sắc tố chỉ được ghi nhận trong các kiểu da tối màu hơn (III-VI) sau khi tiếp xúc với ánh sáng khả kiến liều cao và chỉ các bước sóng ngắn hơn (420-470 nm, xanh lam và tím) mới có thể tạo ra sắc tố thông qua việc kích hoạt thụ thể opsin 3 (OPN3) trong melanocyte.
Hormone sinh dục nữ là yếu tố nguy cơ nổi tiếng đối với sự phát triển của nám da và nó chiếm ưu thế ở phụ nữ có khả năng sinh sản củng cố giả thuyết này. Mất cân bằng nội tiết tố do mang thai, khối u buồng trứng, liệu pháp thay thế nội tiết và thuốc tránh thai nội tiết kích thích sự hình thành melanin. Tỷ lệ nám da do kích thích nội tiết tố khác nhau: 14,5-56% trường hợp nám da xảy ra ở phụ nữ mang thai, trong khi 11-46% có liên quan đến việc sử dụng biện pháp tránh thai nội tiết.
Tiếp xúc với các tác nhân gây stress oxy hóa (như tia UV, ô nhiễm không khí, vận động thể chất và thiếu ngủ), ngay cả trong điều kiện bình thường, có thể tạo ra các loại oxy phản ứng (reactive oxygen specie, ROS) trong da. Trong nám da, stress oxy hóa tại chỗ hoặc toàn thân có thể được nhận biết và có liên quan đến mức độ nghiêm trọng của bệnh.
Quá trình peroxy hóa lipid của màng tế bào là một trong những con đường chính gây tổn thương mô do stress oxy hóa, và malondialdehyd (MDA) là sản phẩm cuối cùng của cơ chế này. Tuy nhiên, một số chất chống oxy hóa có thể ức chế tổn thương oxy hóa do các gốc tự do gây ra.
Một mối tương quan tỷ lệ nghịch mạnh được thấy giữa glutathione huyết tương (GSH) và mức độ nghiêm trọng của nám, cho thấy rằng nó đại diện cho tình trạng stress oxy hóa cao, dẫn đến sự suy giảm GSH.
Lớp bì nông của da bị ảnh hưởng bởi nám biểu hiện các dấu hiệu của stress oxy hóa, chẳng hạn như sự biểu hiện quá mức của p38, so với vùng da lân cận. Hơn nữa, melanin giải phóng ROS sau khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, và quá trình tạo melanin là một quá trình oxy hóa nội bào. Một số phương pháp điều trị nám hiệu quả là các chất chống oxy hóa, như bôi ngoài da vitamin C, niacinamide, cysteamine, axit kojic, axit phytic và pycnogenol đường uống. Những phát hiện này thúc đẩy việc nghiên cứu các cơ chế dẫn đến sự mất cân bằng oxy hóa trong nám để khám phá các chiến lược điều trị và phòng ngừa.
Da bị nám biểu hiện một số thay đổi về chức năng vượt quá những thay đổi của da bị lão hóa ánh sáng và ảnh hưởng đến cân bằng nội môi của da. Chỉ số melanin, chỉ số ban đỏ và độ pH ở da bị nám cao hơn so với vùng da tiếp xúc với ánh sáng lân cận. Tuy nhiên, không có đặc tính sinh lý da nào khác biệt giữa cái gọi là nám biểu bì, nám trung bì và nám hỗn hợp.
Hàng rào bảo vệ da bị tổn thương khi bị nám, như lớp sừng (stratum corneum, SC), mặc dù ngậm nước nhiều, nhưng lại mỏng hơn so với da xung quanh tổn thương. Sự mất nước qua biểu bì (transepidermal water loss, TEWL) và lượng bã nhờn không khác nhau giữa da bị nám và da lân cận. Tuy nhiên, sau tổn thương da, TEWL được phát hiện tăng lên ở vùng da bị nám trong khi quá trình phục hồi hàng rào bị chậm.
Tổng lipid, phosphatidic acid, phosphatidylserine và ceramides tăng lên trong nám da, có thể là một cơ chế bù trừ để duy trì chức năng hàng rào bảo vệ da. Một số lipid quan trọng có biểu hiện thấp với khả năng kích hoạt melanocyte cao, cho thấy rằng việc sửa chữa hàng rào bảo vệ da bị tổn thương có thể là một phương pháp điều trị bổ sung hiệu quả cho bệnh nám da.
Sự lão hóa nguyên bào sợi được ghi nhận rõ ở da lão hóa, đặc biệt là sau khi tiếp xúc với tia UV. Lớp bì trong tổn thương nám nổi bật ở các nguyên bào sợi lão hóa, ít hình thoi hơn và tỷ lệ phân bào thấp hơn; hơn nữa, các tế bào này có tiết chất tiền viêm và thúc đẩy tạo melanin (ví dụ: SCF, HGF và NGFb). Do đó, các chiến lược can thiệp vào kiểu bài tiết của chúng và loại bỏ các tế bào lão hóa có thể làm giảm tái phát nám và cải thiện sắc tố.
Lớp biểu bì trong nám biểu hiện những thay đổi về hình thái ngoài sự tăng melanin. Lớp sừng nén chặt hơn so với vùng da lân cận và lớp hạt bị teo, với các đường gờ phẳng và biểu bì mỏng đi. Nhân tế bào sừng lớp đáy có kích thước lớn hơn, mất phân cực, hình dạng không đều, tăng sắc tố và không đồng nhất về chất nhiễm sắc so với vùng da lân cận.
Yếu tố hình thái quan trọng nhất trong nám là mật độ eumelanin biểu bì tăng lên ở tất cả các lớp, bao gồm cả lớp sừng, trong đó có sự thoái hóa melanin nhiều hơn so với vùng da lân cận.
Melanosome chuyển giao qua lớp biểu bì ở nám lớn hơn, trưởng thành hơn và số lượng nhiều hơn so với những tế bào ở vùng da tiếp xúc với ánh sáng lân cận.
Mật độ melanin ở lớp bì nông thấp hơn khoảng 50–100 lần so với ở lớp biểu bì. Hơn nữa, không có sự khác biệt về lượng melanin ở trung bì giữa da bị nám và vùng da tiếp xúc với ánh sáng lân cận, nhưng nó đậm hơn so với da được bảo vệ khỏi ánh sáng. Vai trò của melanin trung bì trong nám liên quan đến biểu hiện sắc tố lâm sàng và vai trò của nó trong kháng trị vẫn còn là một vấn đề được thảo luận.
Các melanocyte tăng về thể tích và đuôi gai của chúng nổi bật hơn ở lớp đáy của da bị nám so với vùng da tiếp xúc với ánh sáng lân cận. Tuy nhiên, không có bằng chứng về sự gia tăng đáng kể về mật độ melanocyte, như thấy ở các đốm nâu do ánh sáng mặt trời.
Có ý kiến cho rằng những thay đổi ở lớp bì nông là nguyên nhân duy trì và tái phát nám. Điều hòa cận tiết ở lớp bì đối với quá trình hình thành melanin bằng các cơ chế chưa được biết đầy đủ gây ra sự kích thích lâu dài đối với sắc tố biểu bì, đây là một quá trình do tia UV gây ra liên quan đến chu trình lão hóa oxy hóa tế bào (dưới dạng nguyên bào sợi lão hóa) liên quan đến phản hồi của các cytokine.
Da bị nám biểu hiện tăng mật độ mạch máu với tăng biểu hiện của VEGF, là yếu tố có khả năng tạo mạch có liên quan. Sự tăng sinh nội mô cũng tương quan với cường độ hình thành sắc tố gây nám.
Tế bào mast quanh mạch máu tăng lên ở lớp bì nông của da bị nám so với vùng da tiếp xúc với ánh sáng lân cận. Chúng là tế bào tác động trong các đáp ứng dị ứng và tham gia vào quá trình tái tạo và sửa chữa mô. Sự di cư của chúng đến lớp bì trong tổn thương nám được điều hòa bởi SCF, được tiết ra bởi các nguyên bào sợi lão hoá. Tế bào mast giải phóng các enzyme có tác động mô tại chỗ, quan trọng nhất là tryptase, góp phần kích hoạt MMP và thoái hóa collagen ở lớp bì nông, những enzyme hoạt động này làm thoái hóa collagen loại IV và làm tổn thương màng đáy.
Nám da có liên quan đến các tác nhân khác, chẳng hạn như thuốc, phương pháp điều trị thẩm mỹ, viêm da tiếp xúc và các sự kiện gây stress.
Vai trò của thuốc và mỹ phẩm bôi tại chỗ đối với nám đã được báo cáo, mức độ nhạy cảm khi tiếp xúc với mỹ phẩm có thể là nguyên nhân gây ra nám.
Các sự kiện gây stress cấp tính có liên quan đến sự phát triển hoặc làm trầm trọng thêm tình trạng nám da.
Nám da đã được báo cáo sau khi lột da bằng hoá chất, IPL và các phương pháp điều trị xâm lấn, tất cả đều được biết là tác nhân kích thích tăng sắc tố sau viêm. Sự liên quan của hai tình trạng này đã được ghi nhận rõ và tình trạng tăng sắc tố sau viêm thường gặp hơn 2,8 lần ở những bệnh nhân bị nám da. Nám da cũng liên quan đến đốm nâu và nevi, cho thấy khuynh hướng tăng sinh melanocyte ở những bệnh nhân này.
Tham khảo thêm: https://edallyhanquoc.vn/thiet-ke-phac-do-routine-dieu-tri-nam-mang-nam-chan-sau-nam-hon-hop.html
Mọi thông tin chi tiết về sản phẩm cũng như chính sách đại lý xin vui lòng liên hệ edallyhanquoc.vn qua Hotline/Zalo: 0902.158.663 để được tư vấn và hỗ trợ nhanh nhất.
Tác giả: Ana Claudia C. Esposito; Daniel P. Cassiano; Carolina N. da Silva; Paula B. Lima; Joana A. F. Dias; Karime Hassun; Edile ́ia Bagatin; Luciane D. B. Miot; Helio Amante Miot
Chia sẻ bài viết:
건강미인의 에너지 비법
TRUNG TÂM TINH DẦU THÔNG ĐỎ HÀN QUỐC EDALLY BH
BT 09 - KĐT Resco, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam
Phố Tăng, Đông Hưng, Thái Bình, Việt Nam
0902.158.663 / 0908.062.668
edallyhq@gmail.com