Ở các nước châu Âu hàng năm ghi nhận 130.000 bệnh nhân ung thư đại trực tràng, tử vong 98000 người. Ung thư đại trực tràng là nguyên nhân gây tử vong xếp thứ hai sau ung thư phổi.
Bệnh nhân ung thư đại trực tràng sống trên 5 năm ở châu Âu thay đổi từ 50% tại Thụy Sĩ, 40 - 45% tại Phần Lan, Hà Lan, Tây Ban Nha, 30-39% tại Ý, Đan Mạch, Anh, Đức, Pháp; tại Estonia, Ba Lan thì dưới 30%. Ở Anh chi phí hàng năm chữa trị ung thư đại trực tràng mất hơn 300 triệu bảng Anh.
Yếu tố nguy cơ tiến triển ung thư đại trực tràng ở người được coi như khỏe mạnh là độ tuổi.
Mắc bệnh ung thư đại trực tràng ở độ tuổi 40 và trẻ hơn là 8 trên 100000 người, còn độ tuổi 60 và già hơn là 150 trên 100000 người, ngoài ra số liệu này bao gồm cả 2 giới tính. 95% bệnh nhân ung thư đại trực tràng ở Anh trên 50 tuổi.
Ở người được coi như khỏe mạnh là 1-3%.
Nếu người thân cùng thế hệ mắc ung thư đại trực tràng thì nguy cơ tăng tới 5%.
Những người bị viêm loét thì nguy cơ tăng tới 15-30%.
Những người mắc bệnh Crohn - 15%.
Với di truyền ung thư đại trực tràng không polyp - 15-20%.
Với di truyền có polyp là 30-100%.
Yếu tố nguy cơ tiến triển ung thư đại trực tràng là các polyp mà chúng không bao giờ đe dọa tới sự sống. Nhưng chúng có ý nghĩa rất quan trọng về lâm sàng và xã hội bởi khả năng biến chứng ác tính của chúng. Theo các số liệu của nhiều nhà nghiên cứu, trong đa số các trường hợp ung thư đại trực tràng tiến triển từ các polyp. Các nghiên cứu tiến hành ở các bệnh viện khác nhau cho thấy rằng cùng với việc tăng kích thước các polyp là tăng cường tính sinh sôi nảy nở trong chúng, cho đến biến chứng ác tính của chúng.
Trong các polyp dị thường với kích thước dưới 10 mm các nhân dị thường hiếm khi được phát hiện. Trong 0,5-1% các trường hợp với kích thước các polyp tăng lên tới 20 mm thì tăng nguy cơ biến chứng ác tính lên 5-10%. Các polyp lớn biến chứng ác tính trong 20-30% các trường hợp.
Theo các kết quả nghiên cứu thì tần số biến chứng ác tính của các ung bướu xấu tại trực tràng phụ thuộc rất rõ vào diện tích chân của chúng. Nếu diện tích chân khối u dưới 16 cm2 thì nguy cơ biến chứng ác tính của nó là 18,2%; nếu diện tích chân lớn hơn 16 cm2 thì nguy cơ biến thành u ác là 56,3%.
Các viêm nhiễm mãn tính đại tràng, đặc biệt viêm loét tồn tại thời gian dài không đặc trưng là mối đe dọa thực sự ung thư đại trực tràng. Ở bệnh nhân viêm loét đại tràng kéo dài 20 năm thì nguy cơ ung thư đại trực tràng tới 50%. Ở bệnh nhân mắc bệnh Crohn thì nguy cơ ung thư đại trực tràng tới 15-20% tuỳ theo thời gian kéo dài của bệnh này. Các bệnh nhân đã phẫu thuật ung thư đại trực tràng cũng là nhóm có nguy cơ tiến triển ung thư ở các phần khác của ruột già vì các u ác mới hình thành thường phát triển di căn. Ở các bệnh nhân có thể tái phát các polyp mà có tới 5% biến chứng ác tính.
Tất nhiên trong nhóm nguy cơ là những người có di truyền các polyp khuếch tán. Khi bị bệnh này có hàng nghìn các polyp trong tất cả các nơi của ruột già, một phần trong số đó biến chứng 100% ác tính. Bệnh này do biến đổi gen APC được chỉ định ở đòn gánh dài của nhiễm sắc thể thứ 5.
Các bệnh nhân với ung thư đại trực tràng với di truyền không có polyp thông thường có họ hàng thân thích bị bệnh lý này không quá 2 thế hệ. Khi đó bệnh lý thường gặp với biến đổi các gen hMLH1 và hMSH2, sau đó là các gen hMSH6, hPMS1 và hPMS2.
Ở 70% các bệnh nhân có di truyền ung thư đại trực tràng không có polyp, các u ác hình thành tiến triển ở độ tuổi 45-65. Khi mắc bệnh này có thể hình thành các quá trình tân sinh ở các bộ phận khác như não (hội chứng Turco), tử cung, buồng trứng, dạ dày, thận, tuyến giáp…(hội chứng Fardner) ở 60% bệnh nhân, như vậy u ung thư phát triển ở các phần gần ruột già.
Do ruột già là một bộ phận thành phần của hệ thống duy nhất ống tiêu hoá nên vai trò yếu tố căn nguyên của dinh dưỡng tới phát triển các quá trình tân sinh trong cơ thể rất lớn. Về ảnh hưởng của dinh dưỡng tới phát triển UTĐTT có thể thấy các di dân từ vùng có bệnh ung thư này thấp tới các nước ở Bắc Mỹ, châu Âu, sử dụng các đồ ăn địa phương cũng bị ung thư đại trực tràng như các cư dân các nước này. Cần phải thấy rằng những người ăn chay thường ít bị ung thư đại trực tràng.
Tăng mức sử dụng đạm động vật.
Tăng mức sử dụng chất béo động vật.
Tăng mức sử dụng các thức ăn chế biến sẵn.
Nhiều nhà nghiên cứu nghiêng về việc tăng cường sử dụng đạm động vật thúc đẩy phát triển ung thư đại trực tràng. Ở cuối thế kỷ trước đã phân tích số liệu từ 28 đất nước theo tỷ lệ sử dụng thịt trên đầu dân, cho thấy rằng ở đâu sử dụng càng nhiều đạm động vật thì càng tăng mức bệnh ung thư đại trực tràng và mức độ tử vong do ung thư đại trực tràng.
Điều đó liên quan đến việc phân rã chất đạm động vật và tổng hợp trong ruột các chất gây ung thư và kích thích ung thư như chất chuyển hoá tryptophan, nitrodimin và các amin dị vòng, có trong thịt chiên rán.
Tuy nhiên các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng chỉ riêng việc sử dụng protein chắc chắn không thúc đẩy tiến triển ung thư đại trực tràng mà là quá trình chế biến thịt (hoặc chế biến ẩu đồ ăn) có thể sinh ra các amin dị vòng mà chúng có khả năng gây ung thư.
Trong nhiều nghiên cứu cũng nhận xét rằng việc tăng khẩu phần các axit béo đậm đặc thúc đẩy phát triển ung thư đại trực tràng. Ví dụ như nghiên cứu thành phần phân ở dân cư các nước khác nhau chỉ ra rằng ở những người Mỹ không theo chế độ ăn kiêng, trong phân chứa tới 800 mg chất kích thích thần kinh (sterol), còn ở người ăn chay chỉ có 300 mg. Lượng axit béo trong phân người Mỹ cao gấp 2,5-5 lần so với ở người không sử dụng mỡ động vật. Người ăn chay bị ung thư đại trực tràng ít hơn rất nhiều. Vì vậy có giả thuyết rằng ảnh hưởng tới phát triển ung thư đại trực tràng là do thay đổi tiết mật, sự trao đổi axit mật và hệ vi sinh của ruột già. Quá trình tiết dịch mật và biến đổi axit mật thành axit mật thứ cấp phụ thuộc vào số lượng các tế bào trong đồ ăn, tổng hợp các vitamin, mức độ nội tiết tố (estrogen) của máu, vào nồng độ và tương quan các vi sinh trong ruột già. Trong nghiên cứu hiện đại về vấn đề này có tranh luận về ảnh hưởng của cắt túi mật đến phát triển ung thư đại trực tràng, liên quan tới tăng cường axit mật trong phân. Các ý kiến rất khác nhau, nhưng các nghiên cứu đặc biệt không xác định được mối quan hệ chắc chắn sự phát triển ung thư đại trực tràng với việc cắt bỏ túi mật.
Được biết rằng ảnh hưởng lớn tới sự hình thành các hợp chất gây ung thư là hệ vi sinh ruột già và tương quan các vi khuẩn không có lợi và có lợi trong ruột. Ở các nước có bệnh ung thư đại trực tràng thấp, tỷ lệ các vi thuẩn này trong phân là 0,5-1,5; còn ở vùng có ung thư đại trực tràng cao tỷ lệ này là 2,1-2,7. Ý nghĩa dẫn đầu ở đây dành cho vi khuẩn không có lợi clostridium paraputrificum, mà nó có khả năng phân huỷ axit mật tạo thành các hợp chất gây ung thư hoặc kích thích ung thư.
Ảnh hưởng tới phát triển ung thư đại trực tràng là việc thiếu các vitamin, đặc biệt là vitamin A và vitamin C, không đủ trong thức ăn các chất như selen và ảnh hưởng của các hoá chất độc hại như amiăng, aflotoxin…Ung thư đại tràng cũng liên quan với nghiện thuốc lá nhiều năm, còn ung thư trực tràng hay gặp ở đàn ông nghiện rượu bia và các chất có cồn khác.
Có tác dụng bảo vệ là cafe, vì làm giảm tiết dịch mật, cũng như sử dụng rau, quả và đồ hải sản.
Ảnh hưởng chung của dinh dưỡng đến phát triển ung thư đại trực tràng có thể diễn giải sơ đồ phát triển sau của các quá trình tân sinh trong ruột già: việc tăng mức sử dụng các đạm, chất béo động vật và các thức ăn chế biến sẵn trong khi ít các chất xơ thực vật, tạo các điều kiện để xâm nhập trong ruột các hoá chất chứa nhiều axit mật và axit béo. Điều này dẫn tới phá huỷ lớp vi khuẩn niêm mạc và thay đổi thành phần các enzim có nguồn gốc vi sinh, mà nó có thể phá huỷ các hóc môn tự nhiên (steroid), các axit mật để tạo thành các hợp chất gây ung thư và kích thích ung thư. Việc tắc nghẽn đường ruột tạo thành các điều kiện tốt nhất cho sự tiếp xúc kéo dài các chất gây ung thư với niêm mạc ruột già.
Việc phát hiện sớm bệnh ung thư đại trực tràng ở người dân có 2 phương hướng:
Phát hiện ung thư đại trực tràng ở những người được coi là khoẻ mạnh.
Phát hiện ung thư đại trực tràng ở những người trong các nhóm có nguy cơ cao.
Độ tuổi là yếu tố chính nguy cơ tiến triển ung thư đại trực tràng ở những người được coi là khoẻ mạnh. ung thư đại trực tràng ở các bệnh nhân có độ tuổi khác nhau: 40 tuổi - 8 trên 100 nghìn người; 60 tuổi - 150 trên 100 nghìn người. Những người trên 50 tuổi ở Anh chiếm 37% dân số. Chính ở nhóm người này có tới 95% bệnh nhân ung thư đại trực tràng.
Những người không gặp hoàn cảnh bất lợi: 1-3%.
Ung thư đại trực tràng ở người thân thế hệ thứ nhất là 5%.
Những người bị bệnh Crohn: 15-30%.
Những bệnh nhân đã phẫu thuật do bị ung thư đại trực tràng, ung thư vú, buồng trứng: 8-10%.
Những bệnh nhân có một polyp hay nhiều polyp: 20%.
Những bệnh nhân với polyp có tính gia đình: 30-100%.
Xét nghiệm máu ẩn trong phân, được tiến hành để theo dõi những người khoẻ mạnh trên 40 tuổi cho thấy kết quả trái ngược do số lượng lớn các kết quả giả dương tính hay âm tính, cũng như ảnh hưởng của dinh dưỡng đến kết quả. Ngoài ra việc thu thập phân từ những người khoẻ mạnh về mặt thẩm mỹ khó được nhiều người chấp nhận. Chỉ có 38% người được mời chấp nhận tiến hành xét nghiệm. Kết quả 2-6% người khoẻ mạnh có phản ứng dương tính với máu ẩn trong phân và trong nhóm này có 5-10% phát hiện bị ung thư đại trực tràng, u tuyến trong 20-40% các trường hợp. Cùng với đó nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nội soi đại tràng với những người phản ứng dương tính máu ẩn trong phân + dò trực tràng bằng ngón tay dẫn tới giảm tỷ lệ tử vong do ung thư đại trực tràng tới 30% vì phát hiện ra bệnh ở giai đoạn sớm.
Dò trực tràng bằng ngón tay cho phép phát hiện 10% ung thư trực tràng.
Nội soi tín hiệu - 40% trường hợp ung thư đại trực tràng
Nội soi ruột Sigma đến 60cm từ hậu môn cho phép phát hiện 70% các dạng ung thư đại tràng.
Vì vậy khuyến cáo những người trên 50 tuổi nên xét nghiệm máu ẩn trong phân 1 lần trong năm và tiến hành nội soi đại tràng.
Chỉ thị ung thư đại trực tràng rõ nhất là chỉ số u (CEA: Carcinoembryonic Antigen) được phát hiện vào năm 1965.
Các ung bướu ruột già có xu thế di căn sau khi xuyên qua lớp niêm mạc có rất nhiều hạch bạch huyết. Nếu khối u chưa xuyên qua hết các lớp biểu mô ruột già thì di căn các hạch bạch huyết chỉ là 10%; nếu tới lớp thanh mạc thì là 60%. Nếu trong các hạch bạch huyết phát hiện phản ứng tăng sản thì đó là dấu hiệu chuẩn đoán tốt. Ung thư đại trực tràng sau khi di căn vào gan có thể lan truyền rộng khắp tới các bộ phận và biểu mô khác như phổi, xương…Các di căn vào gan phát hiện trong 40% các trường hợp.
Các giai đoạn lan truyền ung bướu đại trực tràng diễn ra như sau. Sau khi xuất hiện khối u ở niêm mạc ruột già, sự xâm nhập của nó được thực hiện theo chiều ngang (không phải theo chiều dọc) của ruột.
Lan truyền ung thư theo các hạch bạch huyết có thể ở các khối u còn chưa xâm nhập hết các lớp biểu mô của ruột già. Khi tiến hành phẫu thuật u đại tràng có thể cấy ghép các tế bào ung thư sang chỗ mới.
Yếu tố chuẩn đoán chính là giai đoạn ung thư đại trực tràng vào lúc thăm khám lần đầu. Phụ thuộc vào việc xác định rõ ràng và chính xác giai đoạn ung thư đại tràng sẽ đưa ra được phương pháp chữa trị phù hợp và khả năng so sánh các kết quả can thiệp phẫu thuật trước đó và các phương pháp chữa trị kết hợp. Hiện nay sử dụng rộng rãi phân loại UTĐTT theo các giai đoạn với chuẩn quốc tế TNM các u ác của Hội chống ung thư quốc tế, được chỉnh biên lần thứ 6 vào năm 2002. Có 5 giai đoạn (O, I, II, III, IV).
Hệ thống TNM được dùng mô tả sự lan truyền giải phẫu nhiễm bệnh của tất cả các đoạn và phần uốn cong của đại tràng, từ bên trái, bao gồm cả ruột thừa, đến đại tràng sigma ( trực tràng được tách riêng). Trong tất cả các trường hợp đều cần xác nhận mô học của chẩn đoán. Trước khi điều trị, sử dụng phân loại lâm sàng, dựa trên các kết quả xét nghiệm (X quang, nội soi, siêu âm, sinh thiết…). Phân loại này cho phép lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp nhất. Sau khi nghiên cứu các tài liệu phẫu thuật, mô tả phân loại bệnh lý với đánh giá khối u nguyên phát (pT), trạng thái các hạch bạch huyết cục bộ (pN) và di căn xa (pM).
Т- khối u nguyên phát.
Тх- Không đủ dữ liệu để đánh giá khối u nguyên phát.
Т0 - Không có u nguyên phát
Тis - Khối u trong biểu mô hay xâm nhập lớp niêm mạc.
Т1 - Khối u xuyên qua các lớp niêm mạc và dưới niêm mạc.
Т2 - Khối u xuyên tới lớp cơ của thành ruột.
Т3 - Khối u xuyên tới vùng dưới phúc mạc hay vùng không có phúc mạc.
Т4 - Khối u xuyên tới màng treo ổ bụng, hay trực tiếp tới các cơ quan và các cấu trúc lân cận.
N - Các hạch bạch huyết cục bộ.
NХ- Không đủ dữ liệu để đánh giá các hạch bạch huyết.
N0 - Không có dấu hiệu di căn các hạch bạch huyết N1 - Di căn tại 1-3 hạch bạch huyết cục bộ.
N2 - Di căn tại 4 hay nhiều hơn hạch bạch huyết cục bộ.
Khi phân tích mô học cần xem xét không ít hơn 12 hạch bạch huyết cục bộ.
М- Có di căn xa.
МХ- Không đủ dữ liệu xác định các di căn xa.
М0 - Không có dấu hiệu di căn xa.
М1 - Có các di căn xa.
G - Phân biệt mô bệnh học.
GХ- Mức độ phân biệt không thể thiết lập.
G1 - Mức độ phân biệt cao.
G2 - Mức độ phân biệt trung bình.
G3 - Mức độ phân biệt thấp.
G4 - Các khối u không biệt hoá.
R - Các khối u còn sót lại.
RХ- Không đủ dữ liệu để xác định u còn sót lại.
R0 - Không có u sót lại.
R1 - U còn sót lại được xác định bằng vi mô.
R2 - U còn sót lại được xác định bằng vĩ mô.
Giai đoạn 0 - Тis, N0 M0.
Giai đoạn I - Т1, Т2 N0 M0.
Giai đoạn IIА - Т3 N0 М0.
Giai đoạn IIВ - Т4 N0 M0.
Giai đoạn IIIА - Т1, Т2, N1 М0.
Giai đoạn IIIВ - Т3, Т4, N1 М0.
Giai đoạn IIIC - Bất kỳ Т, N2 M0.
Giai đoạn IV - Bất kỳ Т, Bất kỳ N, М1.
Trong các trường hợp đặc biệt sử dụng thêm các bộ mô tả m, y, r, a. Ký hiệu m chỉ định đa u nguyên phát, r - về tái phát u sau khi phục hồi hoàn toàn, a - giai đoạn bệnh thiết lập sau khám nghiệm tử thi, y - sử dụng khi phân loại được xác định trong khi và sau khi sử dụng các phương pháp điều trị khác nhau.
Thường gặp nhất là ung thư biểu mô tuyến (hơn 80% tất cả các khối u đại tràng), và cả ung thư nhày nhụa, dạng keo, sần sùi, viêm loét sâu, không biệt hoá.
Nhà bác học người Đức tên là Golzen có nói rằng Ung thư là sự trả thù của tự nhiên, bởi con người sử dụng thức ăn sai lầm” trong cuốn sách “Điều trị ung thư” nổi tiếng.
Trong 10.000 trường hợp ung thư thì 9.999 trường hợp là do sự đầu độc từ phân của chính mình. Chỉ có 1 trường hợp là do sự biến đổi mà thoái hóa mà thôi".
Chính vì vậy, để phòng ngừa bệnh ung thư nói chung và bệnh ung thư đại trực tràng nói riêng thì việc quan trọng nhất là cần dọn dẹp đường ruột mỗi ngày để tạo môi trường tốt cho lợi khuẩn phát triển, tăng sức khỏe và đề kháng cơ thể.
Giúp thải độc cơ thể, thải độc đường ruột, làm sạch ruột, cải thiện nhu động ruột, đào thải độc tố qua chất rắn nhanh chóng
Chứa Maltodextrin kháng tiêu hóa (có trên 85% chất xơ), chiết xuất gel lô hội và hoa dâm bụt là một trong những thành phần làm sạch ruột chỉ trong 15 ngày, đào thải độc tố trong cơ thể qua da, giúp nhu động ruột hoạt động trơn tru.
Lượng chất xơ trong mỗi gói Cà phê thải độc giảm cân Edally Super Slimming Garcinia Coffee tương ứng với 5 quả táo hoặc 5 củ khoai lang giúp tăng nhịp điệu của ruột trong quá trình co bóp thức ăn hoặc đào thải độc tố cơ thể.
Garcinia Cambogia có chứa rất nhiều Hydroxy Citric Acid (HCA), chất này giúp chuyển hóa carbohydrate thành chất béo và giúp giảm thèm ăn, giảm mỡ cơ thể, ngăn mỡ tích tụ, giảm tích tụ và phát triển độc tố qua mô mỡ cho cơ thể.
Link sản phẩm: https://edallyhanquoc.vn/cafe-giam-can-va-thai-doc-super-slimming-garcinia-coffee-edally-han-quoc.html
Mọi thông tin chi tiết về sản phẩm Cà phê thải độc giảm cân Edally Super Slimming Garcinia Cofee và Thương hiệu Thực phẩm bảo vệ sức khỏe Edally BH Hàn Quốc xin vui lòng liên hệ tới Trung Tâm Tinh Dầu Thông Đỏ Hàn Quốc Edally BH theo Hotline/Zalo: 0902.158.663 hoặc website: edallyhanquoc.vn để được tư vấn và hỗ trợ nhanh nhất.
Chia sẻ bài viết:
건강미인의 에너지 비법
TRUNG TÂM TINH DẦU THÔNG ĐỎ HÀN QUỐC EDALLY BH
BT 09 - KĐT Resco, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam
Phố Tăng, Đông Hưng, Thái Bình, Việt Nam
0902.158.663 / 0908.062.668
edallyhq@gmail.com