Do đó, Trong Y học cổ truyền (YHCT) sử dụng một hệ thống các loại thảo dược, mỗi loại có một hoặc nhiều tác dụng khác nhau, và thường được kết hợp với nhau để tạo ra các bài thuốc phù hợp với từng cá nhân và từng tình trạng bệnh cụ thể.
Tía tô (Perilla frutescens): Lá tía tô có vị cay, tính ấm, chứa nhiều tinh dầu có tác dụng kháng khuẩn, kháng viêm, giúp làm ấm cơ thể, giải cảm, giảm ho và long đờm. Tía tô thường được dùng trong các bài thuốc chữa cảm cúm, ho do lạnh, viêm họng, hoặc được dùng dưới dạng xông hơi để giải cảm.
Kinh giới (Elsholtzia ciliata): Kinh giới có vị cay, tính ấm, có tác dụng tương tự như Tía tô trong việc phát tán phong hàn, giải biểu. Ngoài ra, Kinh giới còn có tác dụng cầm máu, thường được dùng để chữa chảy máu cam do thời tiết khô nóng.
Bạc hà (Mentha arvensis): Bạc hà có vị cay, tính mát, chứa menthol có tác dụng làm thông thoáng đường thở, giảm nghẹt mũi, giảm đau họng và hạ sốt. Bạc hà thường được dùng trong các loại thuốc ho, viên ngậm trị đau họng, hoặc dùng để xông mũi họng.
Kim ngân hoa (Lonicera japonica): Kim ngân hoa có vị ngọt, tính hàn, chứa các hoạt chất có tác dụng kháng khuẩn, kháng virus, giúp thanh nhiệt, giải độc, tiêu viêm, thường được dùng để chữa viêm họng, viêm amidan, viêm phổi, mụn nhọt.
Liên kiều (Forsythia suspensa): Liên kiều có vị đắng, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tán kết, tiêu viêm, thường được dùng để chữa các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp trên, như viêm họng, viêm amidan, viêm tai giữa, hoặc các bệnh ngoài da như mụn nhọt, ban sởi.
Bồ công anh (Taraxacum officinale): Bồ công anh có vị đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu viêm, lợi tiểu, thường được dùng để chữa viêm họng, viêm phổi, mụn nhọt, hoặc các bệnh về gan mật.
Trần bì (Citrus reticulata): Trần bì (vỏ quýt lâu năm) có vị cay, đắng, tính ấm, có tác dụng kiện tỳ, lý khí, hóa đờm, táo thấp, thường được dùng để chữa ho có đờm, khó tiêu, đầy bụng. Tinh dầu trong trần bì có tác dụng kích thích niêm mạc đường hô hấp, giúp long đờm và dễ khạc đờm ra ngoài.
Cát cánh (Platycodon grandiflorus): Cát cánh có vị đắng, tính bình, có tác dụng tuyên phế, trừ đờm, lợi yết hầu, thường được dùng để chữa ho có đờm, viêm họng, khản tiếng, mất tiếng. Cát cánh có chứa saponin, có tác dụng kích thích niêm mạc họng, giúp long đờm và giảm ho.
Tang diệp (Morus alba): Tang diệp (lá dâu) có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng thanh phế, nhuận táo, chỉ khái, thường được dùng để chữa ho khan, ho do phế nhiệt, viêm họng, sốt. Tang diệp có chứa flavonoid và các hợp chất khác có tác dụng chống oxy hóa, kháng viêm, giúp bảo vệ tế bào phổi.
Cam thảo (Glycyrrhiza uralensis): Cam thảo có vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ tỳ vị, nhuận phế, hòa trung, giải độc, thường được dùng để chữa ho, viêm họng, đau bụng, mệt mỏi. Cam thảo có chứa glycyrrhizin, có tác dụng kháng viêm, giảm ho và làm dịu cổ họng.
Xuyên bối mẫu (Fritillaria cirrhosa): Có tác dụng thanh nhiệt, nhuận phế, hóa đờm, chỉ khái, thường được dùng để chữa các chứng ho khan, ho có đờm đặc, ho lâu ngày không khỏi.
Hạnh nhân (Prunus armeniaca): Có tác dụng giáng khí, chỉ khái, bình suyễn, nhuận tràng, thường được dùng để chữa các chứng ho suyễn, khó thở, táo bón.
Mạch môn (Ophiopogon japonicus): Mạch môn có vị ngọt, hơi đắng, tính hàn, có tác dụng dưỡng âm, nhuận phế, sinh tân, chỉ khát, thường được dùng để chữa ho khan, ho do phế âm hư, miệng khô, họng khát, táo bón.
Sa sâm (Glehnia littoralis): Sa sâm có vị ngọt, tính hơi hàn, có tác dụng dưỡng âm, thanh phế, ích vị sinh tân, thường được dùng để chữa các chứng ho khan, sốt nhẹ, miệng khô họng khát do phế vị âm hư.
Đông trùng hạ thảo: Giúp phòng ngừa và điều trị các chứng bệnh về hô hấp: hen phế quản, viêm phế quản, viêm phổi, lao phổi, chống xơ phổi , ngừa suy hô hấp cấp.…
Gừng (Zingiber officinale): Gừng có vị cay, tính ấm, có tác dụng phát tán phong hàn, ôn trung tán hàn, hóa đờm, thường được dùng để chữa cảm lạnh, ho, buồn nôn. Gừng giúp làm ấm cơ thể, tăng cường lưu thông máu và giảm các triệu chứng khó chịu do cảm lạnh.
Điều trị các bệnh lý hô hấp bằng Y học cổ truyền (YHCT) dựa trên nguyên tắc biện chứng luận trị - tức là xác định nguyên nhân (tà khí), tạng phủ liên quan (phế, tỳ, thận), sau đó lựa chọn phép trị và phương thuốc phù hợp. Dưới đây là các phương pháp cụ thể:
Thảo dược: Sử dụng các bài thuốc cổ phương hoặc gia giảm tùy theo thể bệnh. Ví dụ:
Cảm phong hàn: Dùng bài Ma Hoàng Thang (Ma hoàng, Quế chi, Cam thảo, Hạnh nhân) để phát hãn giải biểu, tán hàn.
Cảm phong nhiệt: Dùng bài Tang Cúc Ẩm (Tang diệp, Cúc hoa, Liên kiều, Bạc hà, Cát cánh, Cam thảo) để thanh nhiệt giải độc, sơ phong.
Ho do phế nhiệt: Dùng bài Thanh Kim Giáng Hỏa Thang (Hoàng cầm, Chi tử, Tri mẫu, Mạch môn, Tang bạch bì, Ngưu bàng tử, Cam thảo, Bối mẫu, Qua lâu nhân, Sinh địa) để thanh phế, giáng hỏa, hóa đờm.
Ho do phế âm hư: Dùng bài Mạch Môn Đông Thang (Mạch môn, Bán hạ, Nhân sâm, Cam thảo, Gạo tẻ, Đại táo) để dưỡng âm, nhuận phế, sinh tân.
Châm cứu vào các huyệt vị trên kinh lạc có liên quan đến hệ hô hấp (ví dụ: Phế du, Phong môn, Liệt khuyết, Hợp cốc) để điều hòa khí huyết, thông kinh hoạt lạc, giảm ho, giảm khó thở.
Xoa bóp, bấm huyệt: xoa bóp vùng ngực, lưng, day bấm các huyệt có tác dụng thông khí, long đờm, giảm đau tức ngực.
Khí công, dưỡng sinh: Tập các bài tập thở, vận động nhẹ nhàng để tăng cường chức năng phổi, cải thiện lưu thông khí huyết.
nhân về chế độ ăn uống, sinh hoạt, tập luyện để hỗ trợ quá trình điều trị và phòng bệnh tái phát.
Trong thực tế, việc kết hợp YHCT và YHHĐ trong điều trị các bệnh hô hấp ngày càng trở nên phổ biến. Sự kết hợp này có thể mang lại nhiều lợi ích:
Chẩn đoán chính xác: YHHĐ giúp chẩn đoán nhanh chóng, chính xác bệnh danh và mức độ tổn thương, trong khi YHCT giúp xác định thể bệnh và các yếu tố liên quan.
Điều trị toàn diện: YHHĐ giúp kiểm soát triệu chứng cấp tính, tiêu diệt tác nhân gây bệnh, trong khi YHCT giúp điều trị căn nguyên, tăng cường sức đề kháng và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Giảm tác dụng phụ: YHCT có thể giúp giảm tác dụng phụ của các thuốc YHHĐ, ví dụ: châm cứu có thể giúp giảm đau, buồn nôn do hóa trị.
Phục hồi chức năng: YHCT có thể giúp phục hồi chức năng phổi sau các đợt phát bệnh hô hấp.
Ví dụ, trong điều trị hen phế quản, YHHĐ có thể sử dụng thuốc giãn phế quản, corticoid để kiểm soát cơn hen cấp, trong khi YHCT có thể sử dụng các bài thuốc bổ phế, kiện tỳ, hóa đờm để điều trị căn nguyên, giảm tần suất lên cơn hen và cải thiện chức năng phổi.
Tóm lại việc kết hợp hài hòa hai phương pháp này, dựa trên sự hiểu biết sâu sắc về cả hai hệ thống y học, có thể mang lại hiệu quả điều trị tốt nhất cho người bệnh.
Tham khảo các sản phẩm chăm sóc sức khỏe chính hãng tại: https://edallyhanquoc.vn/thuc-pham-bao-ve-suc-khoe-edally-bh-han-quoc.html
Mọi thông tin chi tiết về sản phẩm cũng như chính sách đại lý xin vui lòng liên hệ edallyhanquoc.vn qua Hotline/Zalo: 0902.158.663 để được tư vấn và hỗ trợ nhanh nhất.
Nguồn: BS CKI. Nguyễn Trần Như Thủy - Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM - Cơ sở 3
Chia sẻ bài viết:
건강미인의 에너지 비법
TRUNG TÂM TINH DẦU THÔNG ĐỎ HÀN QUỐC EDALLY BH
BT 09 - KĐT Resco, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam
Phố Tăng, Đông Hưng, Thái Bình, Việt Nam
0902.158.663 / 0908.062.668
edallyhq@gmail.com