Tuy nhiên, trong thực hành lâm sàng nội tiết, đây là hai giai đoạn rất dễ bị bỏ sót, chẩn đoán nhầm hoặc điều trị không đúng trọng tâm, dẫn đến nhiều hệ lụy sức khỏe lâu dài như loãng xương, rối loạn chuyển hóa, bệnh tim mạch, suy giảm chất lượng sống và rối loạn tâm lý.
Để thống nhất cách tiếp cận, Hội Nội tiết Châu Âu (ESE) đã công bố hướng dẫn chính thức, cập nhật bằng chứng mới nhất, giúp bác sĩ và bệnh nhân hiểu đúng - điều trị đúng. Bài viết này tổng hợp toàn bộ các khuyến cáo quan trọng, trình bày theo ngôn ngữ khoa học nhưng dễ hiểu, giúp bạn đọc nắm bắt đầy đủ và có khả năng ứng dụng vào thực tế chăm sóc sức khỏe cá nhân.

Những khuyến cáo chính trong Hướng dẫn điều trị mãn kinh và Tiền mãn kinh của Hội Nội tiết Châu Âu được công bố ngày 13/ 10/ 2025 trên Tạp chí Nội tiết châu ÂU là:
Coi mãn kinh như một phổ liên tục, bao gồm cả giai đoạn tiền mãn kinh và hậu mãn kinh.
Nên nghĩ đến tiền mãn kinh khi có RL kinh nguyệt và/hoặc triệu chứng vận mạch (VMS), ngay cả ở phụ nữ trẻ (40-45 tuổi).
Nên nghĩ đến suy buồng trứng sớm (POI) ở phụ nữ < 40 tuổi khi có rối loạn kinh nguyệt và/hoặc giảm khả năng sinh sản và/hoặc triệu chứng vận mạch.
Không cần xét nghiệm sinh hóa để chẩn đoán hoặc điều trị (tiền) mãn kinh ở phụ nữ > 45 tuổi.
Nên làm xét nghiệm sinh hóa để xác định POI ở phụ nữ < 40 tuổi có rối loạn kinh nguyệt và/hoặc giảm khả năng sinh sản và/hoặc triệu chứng vận mạch.
Nếu cần làm xét nghiệm sinh hóa để chẩn đoán tiền mãn kinh: Đo FSH vào ngày 2-5 của chu kỳ kinh hoặc sau hơn 40 ngày không có kinh.
Nếu phụ nữ trong độ tuổi sinh sản mà có tiền sử và biểu hiện lâm sàng như rối loạn kinh nguyệt và/hoặc các triệu chứng giống mãn kinh, cần nghĩ đến các chẩn đoán khác, và có thể cần xét nghiệm bổ sung.
Cần áp dụng cách tiếp cận toàn diện cho phụ nữ trong giai đoạn tiền và hậu mãn kinh, không chỉ tập trung duy nhất vào liệu pháp hormone thay thế (HRT)/liệu pháp hormone mãn kinh (MHT).
Trước khi bắt đầu HRT/MHT, phụ nữ cần được cung cấp đầy đủ thông tin về lợi ích - nguy cơ của điều trị và các lựa chọn khác để hỗ trợ quyết định điều trị chung.
Nếu có chỉ định, phụ nữ còn tử cung nên bắt đầu MHT bằng chế phẩm phối hợp estrogen và progestogen. Phụ nữ không còn tử cung có thể bắt đầu MHT với chế phẩm chỉ chứa estrogen.
Những phụ nữ dùng MHT để điều trị triệu chứng, cần đánh giá lại hiệu quả sau 3 tháng. Nếu đáp ứng kém, hoặc xuất hiện tác dụng bất lợi hoặc kém dung nạp, cần đánh giá lại liều và dạng thuốc.
Khi kê MHT cần tính đến đặc điểm cá nhân và bệnh đi kèm; khi lựa chọn đường dùng (qua da hoặc đường uống), cần cân nhắc sở thích, tính sẵn có và chi phí.
Nên kê HRT cho bệnh nhân suy buồng trứng sớm bất kể có triệu chứng vận mạch hoặc triệu chứng climacteric khác hay không, vì lợi ích vượt trội rõ rệt so với nguy cơ. HRT nên được duy trì đến tuổi mãn kinh tự nhiên dự kiến.
Khuyến cáo bắt đầu MHT cho phụ nữ trong vòng 10 năm từ khi mãn kinh tự nhiên hoặc < 60 tuổi khi có triệu chứng mãn kinh gây khó chịu. Liệu pháp MHT có thể giúp ngăn mất xương, giảm nguy cơ gãy xương và có thể có tác dụng tích cực trên tim mạch.
Ở những phụ nữ có triệu chứng teo âm đạo - âm hộ, có thể cân nhắc MHT tại chỗ hoặc toàn thân tùy mức độ triệu chứng khác. Estrogen tại chỗ thường được dùng đơn độc nhưng có thể kết hợp với MHT toàn thân nếu cần.
Có thể cân nhắc kê MHT cho những phụ nữ không có triệu chứng tiền/mãn kinh < 60 tuổi để bảo vệ xương.
Tuổi: Tiếp cận cá thể hóa khi tiếp tục MHT ở phụ nữ > 60 tuổi, cân nhắc tác động trên VMS, triệu chứng climacteric, thay đổi nguy cơ - lợi ích theo tuổi, ảnh hưởng trên xương và sở thích cá nhân.
Huyết khối tĩnh mạch sâu: nếu phụ nữ có tiền sử VTE và HRT/MHT được chỉ định sau đánh giá cân bằng nguy cơ - lợi ích, thì nên dùng estrogen qua da liều thấp.
Bệnh tim mạch: không nên dùng để phòng ngừa tiên phát hoặc thứ phát bệnh tim mạch.
Đái tháo đường: Đái tháo đường kiểm soát tốt không phải là chống chỉ định của MHT; estrogen qua da là lựa chọn ưu tiên.
Tăng huyết áp: Ở phụ nữ Tăng huyết áp kiểm soát tốt, không có chống chỉ định với MHT; estrogen qua da là lựa chọn ưu tiên. Nhưng không nên khởi trị MHT khi Tăng huyết áp chưa kiểm soát.
Đột quỵ: không dùng MHT để phòng ngừa đột quỵ.
Migraine: Ở phụ nữ có chỉ định MHT và tiền sử migraine, nên dùng estrogen qua da.
Ung thư vú: Tất cả phụ nữ bắt đầu MHT cần được thông tin về nguy cơ tăng ung thư vú. Không dùng MHT toàn thân ở phụ nữ có tiền sử ung thư vú; cân nhắc tùy theo tuổi và đặc điểm khối u. Có thể cân nhắc dùng estrogen âm đạo liều thấp điều trị triệu chứng tiết niệu - sinh dục ở phụ nữ có tiền sử ung thư vú nếu các biện pháp không hormone không hiệu quả.
Ung thư nội mạc tử cung: Có thể cân nhắc khởi trị MHT ở phụ nữ có tiền sử ung thư nội mạc tử cung giai đoạn sớm và được xem là đã khỏi bệnh.
Ung thư buồng trứng: Nguy cơ ung thư buồng trứng không phải yếu tố quyết định chính trong việc khởi trị hay không khởi trị MHT. Có thể cân nhắc MHT ở phụ nữ có (hoặc từng có) một số thể ung thư buồng trứng nhất định.
Không sử dụng MHT thường quy để điều trị trầm cảm trong giai đoạn tiền mãn kinh và mãn kinh hoặc để phòng ngừa hoặc điều trị sa sút trí tuệ.
Tham khảo thêm các sản phẩm chăm sóc sức khỏe chính hãng tại: https://edallyhanquoc.vn/thuc-pham-bao-ve-suc-khoe-edally-bh-han-quoc.html
Mọi thông tin chi tiết về sản phẩm cũng như chính sách đại lý xin vui lòng liên hệ edallyhanquoc.vn qua Hotline/Zalo: 0902.158.663 để được tư vấn và hỗ trợ nhanh nhất.
Nguồn: TS.BS Nguyễn Quang Bảy - Bệnh viện Bạch Mai
Chia sẻ bài viết:
.png)
건강미인의 에너지 비법
TRUNG TÂM TINH DẦU THÔNG ĐỎ HÀN QUỐC EDALLY BH
BT 09 - KĐT Resco, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam
Phố Tăng, Đông Hưng, Thái Bình, Việt Nam
0902.158.663 / 0908.062.668
edallyhq@gmail.com