Theo cách hiểu chung chung thì Stress có nghĩa là tình trạng căng thẳng, mệt mỏi, mất ngủ kéo dài. Đơn giản hơn thì stress chỉ tình trạng một người bị đặt trong tình trạng chịu áp lực cuộc sống kéo dài. Từ tương đương cũ hay dùng là suy nhược thần kinh, suy nhược cơ thể, một trạng thái kéo dài gây và liên quan đến nhiều bệnh lý.
Nhưng khi Stress kéo dài, nặng nề thì sẽ gây hậu quả cấp tính của nó là STROKE thì nhiều người, nhiều khi vẫn chưa nhận thức đầy đủ. Nếu Stress là một tình trạng có tính Nguyên nhân, thì STROKE là Hậu quả. Nó không chỉ là một Bệnh, mà có thể là một nhóm Bệnh chiếm tỷ lệ nhập viện cấp cứu thuộc loại cao nhất, nặng nề và cũng chiếm tỷ lệ tử vong cao nhất. Chúng ta thường gặp, thường nghe, thường đề phòng cái chết đột ngột, gọi đơn giản là Đột tử. Đột tử thường ngay lập tức gắn với chưa rõ nguyên nhân, sau khi được làm rõ thì thường là hậu quả của STROKE. Tuy nhiên, sự thiếu quan tâm hay không hiểu biết cặn kẽ về STROKE nên chưa biết cách phòng ngừa, phát hiện, cấp cứu, một số biện pháp điều trị thông thường để tự bảo vệ, giữ an toàn tính mạng cho bản thân, gia đình và bạn bè xung quanh.
Tiếng Việt, STROKE được dịch theo nghĩa y khoa là đột quỵ. Đột quỵ được một số tài liệu gọi là, được hiểu là Tai biến mạch máu não. Nhưng Tai biến mạch máu não - gọi chính xác là đột quỵ não, chỉ là một loại Đột quỵ do nguyên nhân bệnh lý của Hệ thần kinh trung ương. Còn có đột quỵ do nguyên nhân từ bệnh lý tim mạch. Có đột quỵ do nguyên nhân rối loạn Nội tiết, Nội môi cấp tính và nặng nề.
Cơ thể không bao giờ im lặng trước đột quỵ - chỉ là bạn đã không nghe. Một người bị đột quỵ không bao giờ là chuyện “đột ngột” như người ta vẫn nghĩ. Đột quỵ không phải là một tai họa rơi từ trời xuống. Nó là tập hợp của hàng trăm tiếng kêu cứu nhỏ - bị bỏ qua suốt nhiều năm.
Một chút tê tay khi ngủ - bạn nghĩ là do nằm sai tư thế.
Một lần méo miệng vài giây khi đánh răng - bạn tưởng là mệt.
Một hôm bỗng thấy khó nói, nói vấp - bạn tự cười cho qua.
Một đợt mỡ máu tăng nhẹ - bạn nghĩ ăn kiêng vài ngày là đủ.
Một lần đo huyết áp 150/95 - bạn lắc đầu: “Chắc tại hôm đó hơi stress.”
Và đường huyết lúc đói 6.8 mmol/L - bác sĩ nói theo dõi, bạn nghĩ chưa cần lo.
Cho đến một ngày… tất cả những “chuyện nhỏ” đó gom lại - thành một cơn đột quỵ.
Cơ thể không bao giờ im lặng. Nó lên tiếng mỗi ngày, bằng những con số: huyết áp, mỡ máu, đường huyết, vòng bụng. Nó cảnh báo bằng những biểu hiện nhỏ xíu: tê - mỏi - đau đầu - choáng váng - nói khó - nhìn mờ. Nó không biết nói - nhưng nó luôn cố gắng gửi tín hiệu. Chỉ là bạn đang quá bận. Hoặc quá quen với việc “chịu đựng”.Hoặc nghĩ rằng “mình chưa đến tuổi để lo mấy chuyện này.”
Chúng tôi viết bài này, không để dọa bạn. Mà để bạn biết: chữa bệnh không bao giờ bắt đầu bằng thuốc, mà bắt đầu bằng nhận ra. Nhận ra những điều mình từng lờ đi. Nhận ra rằng một thân thể khoẻ mạnh không đến từ may mắn - mà đến từ chủ động kiểm soát.
Mỡ nội tạng cao, vòng bụng lớn nhưng không giảm được dù ăn ít.
Huyết áp dao động >140/90, nhất là buổi sáng.
Chỉ số LDL hoặc triglyceride cao, bác sĩ nói “có mảng xơ vữa nhẹ”.
Tiền tiểu đường, HbA1c ở ngưỡng 5.7-6.4%, hoặc đường huyết lúc đói >5.8.
Thỉnh thoảng thấy tê một bên tay, hoa mắt, nói vấp, đau đầu kiểu mới.
Thì xin bạn đừng chờ thêm nữa. Bạn có thể là người cứu chính mình. Bạn cũng có thể là người cứu ba mẹ, vợ/chồng, bạn thân - chỉ bằng cách nhận ra những dấu hiệu mà người khác đang bỏ lỡ. Đừng để cơ thể phải hét lên - khi bạn lẽ ra đã có thể nghe được nó từ tiếng thở đầu tiên.
Để phát hiện đột quỵ, cần và nên chú ý đến các triệu chứng rất đặc trưng như sau:
Các dấu hiệu rối loạn thần kinh: Chóng mặt, choáng váng, đau đầu đột ngột như sét đánh. Đột ngột bị á khẩu, nói năng ú ớ, lảm nhảm lẫn lộn, vô nghĩa hoặc cấm khẩu. Ngủ gà , hôn mê ngay lập tức.
Các dấu hiệu rối loạn vận động: Yếu chi thể, bại một bên, liệt nửa người hay một vài chi thể... mất vận động chủ động hay thụ động. Các rối loạn khác như co giật giãy giụa vô thức... Run rẩy hay ngã, vấp bất thường, lăn đùng ra đất.
Các dấu hiệu rối loạn cảm giác: Mất cảm giác một phần hay toàn bộ. Xuất hiện dị cảm như bỏng rát, đau xé ngực, buốt óc...
Các rối loạn về thị giác: Nhìn mờ, nhìn đôi, nhìn gà hóa cuốc, ruồi bay trước mặt hay tối sầm, thế giới xung quanh quay cuồng như trong cơn bão lốc...
Các rối loạn về tiêu hóa, bài tiết: Nôn ói, trớ, nhểu nước bọt bên mép. Nặng hơn là đái, ỉa tự động, vãi ra quần. Mồ hôi toát đầm đìa, mồ hôi lạnh toát....
Các rối loạn về hô hấp : Thở khò khè, thở rống ngắt ngừng, thở chậm, ngừng thở hay thở theo các chu kỳ lạ lùng...
Các dấu hiệu về tim mạch: Mạch nhỏ, nhanh chậm không đều. Huyết áp tụt thấp hay không đo được. Đầu ngón tay ngón chân, cánh mũi tím tái. Da lạnh, vã mồ hôi hột, thất khiếu (Các lỗ tự nhiên: Mắt, mũi, miệng, tai, hậu môn, miệng sáo, âm đạo, lỗ chân lông...) thoát dịch (Trạng thái Thoát dương ).
S của Smile (Cười) : Bảo người bệnh Cười, cười to chủ động lên, nếu được thì tạm yên tâm, nếu không: Gợi tới STROKE ngay.
T của Talk (Nói): Bảo bệnh nhân nói A, nói B... hay chưởi cũng được miễn là chính xác theo yêu cầu, nếu không, là có khả năng bị STROKE.
R của Raise (Đưa tay lên, dạng khép chân ): Bảo bệnh nhân chủ động vận động tay nâng lên, chân dạng khép và nâng đầu gối lên... đặt tay, chân nâng cao và giữ lại ở tư thế đó. Được thì tốt, không được thì gay go và phải chuyển ngay vào các Trung tâm cấp cứu, nhập viện ngay lập tức.
Đột quỵ xảy ra khi dòng máu lên não bị gián đoạn đột ngột, gây chết tế bào thần kinh. Nguyên của đột quỵ bao gồm:
Do tai biến mạch máu não: Tắc mạch não gây nhồi máu não, Vỡ mạch máu não gây xuất huyết não... Co thắt mạch máu não tạm thời cũng là một nguyên nhân được nêu ra nhưng hiếm và không thực sự rõ ràng.
Do tổn thương hành tủy cấp: Chấn thương cấp như ngã đập gáy, chặt tay mạnh vào gáy... Gây tổn thương hành tủy, não bộ cấp.
Nhồi máu cơ tim cấp, phình bóc tách động mạch chủ cấp, bloke Nhĩ - Thất hoàn toàn... Cao huyết áp kịch phát, cao huyết áp cộng stress kéo dài dẫn tới tai biến mạch máu não, Nhồi máu mạc treo diện rộng... Cũng là nhóm nguyên nhân gây Stroke.
Mất nước nhiều, cấp tính do say nắng, say nóng nặng nề.
Vỡ khối u lớn; Vỡ các khối phình mạch, U nang.
Teo gan vàng cấp: Da vàng khè, thở mùi xê tôn (Mùi rau quả thối).
Các bệnh lý nội khoa kéo dài; Hen phế quản ác tính; Bệnh lý truyền nhiễm ác tính: Tả, lỵ, thương hàn thể ác tính (Đi lỏng liên tục, số lượng và khối lượng lớn, không cầm được, da teo tóp, hôn mê ngay từ đầu... khi chưa rõ nguyên nhân, cũng được xếp vào STROKE).
Theo các số liệu thống kê, các trường hợp đột quỵ chủ yếu là do tai biến mạch máu não, mà nhồi máu não là dạng gặp nhiều nhất. Khi bị đột quỵ, tình trạng một phần não bộ bị tổn thương đột ngột do mất máu nuôi và các tế bào não sẽ bị chết gây tổn thương không hồi phục.
Tiên lượng bệnh và Hậu quả tùy thuộc vùng tổn thương, mức độ tổn thương, thời gian tổn thương và kết quả của việc điều trị, chăm sóc.
Các di chứng thường là liệt nửa người, liệt chi thể, hậu quả nặng hơn là hôn mê hoặc tử vong ngay trong những giờ đầu.
Đột quỵ não là nguyên nhân gây tử vong và để lại di chứng tàn tật cho nhiều người (đặc biệt là người lớn tuổi). Ở các nước phát triển, tỉ lệ tử vong do đột quỵ não chỉ đứng sau bệnh ung thư và các bệnh về tim mạch.
Theo tổ chức Y tế thế giới, tỉ lệ số người mắc chứng đột quỵ não hàng năm chiếm khoảng 1.3 - 7.5 %/1 năm. Khả năng phục hồi chỉ có khoảng 50%, nhưng thường tái phát, tần số tái phát càng ngày càng ngắn lại. Thêm nữa, di chứng tàn phế hoặc một vài dị tật nặng nề như liệt, bại, rối loạn thần kinh, hôn mê kéo dài gây hậu quả rất nặng nề, tốn kém cho bản thân, gia đình và xã hội.
Nguyên nhân dẫn đến đột quỵ não là do hậu quả của tăng huyết áp. Bệnh gặp ở nam nhiều hơn nữ. Các yếu tố nguy cơ cao, yếu tố tăng nặng là hút thuốc lá, tiểu đường, các bệnh lý về tim - mạch như thiếu máu cơ tim, xơ vữa động mạch, bệnh lý mạch máu ngoại biên... Chứng tăng mỡ máu, lười vận động thể dục, béo phì, nghiện rượu, căng thẳng thần kinh kéo dài... cũng là nguyên nhân, nguyên do gây đột quỵ.
Đột quỵ là cấp cứu y tế khẩn cấp - thời gian là yếu tố quyết định sự sống còn và khả năng hồi phục. Nguyên tắc “Giờ vàng”: Điều trị càng sớm, khả năng cứu tế bào não càng cao, giảm di chứng và tử vong.
Khai thông đường thở: Banh miệng, chèn đũa cả ngang miệng, không để người bệnh cắn lưỡi gây chảy máu, tràn máu vào đường thở.
Nên móc đờm rãi, kéo lưỡi, để nghiêng đầu tránh trào ngược hay sặc thức ăn vào đường thở...
Đo mạch, huyết áp, nếu thấp thì ủ ấm toàn thân, cho uống trà gừng, xoa bóp dầu nóng... Nếu huyết áp cao thì giỏ một giọt Adalat 10mg dưới lưỡi (nếu có sẵn), cho uống thuốc an thần trước khi chuyển ngay đi bệnh viện cấp cứu.
Một số thao tác đông y có lợi: Chích nặn máu các huyệt Thập Tuyên (Mười đầu ngón tay, ngón chân), châm chích huyệt Nhân Trung, kéo dái tai, chích dái tai... Cũng có tác dụng nhưng không chắc chắn và không phải là tất cả.
Lau rửa, giữ ấm, sạch cho người bệnh. Không vội vã nhưng khẩn trương, chu đáo đưa ngay vào các trung tâm cấp cứu gần nhất, đưa đến bệnh viện tốt nhất khi có thể. Tránh cầu toàn mà chọn bệnh viện lớn nhưng lại quá xa, vận chuyển kéo dài hay khó khăn... làm chậm mất Thời gian vàng để cấp cứu kịp thời, đúng và đủ cho người bệnh.
Sẽ được nhân viên Y tế cấp cứu, điều trị chuyên biệt theo chuyên khoa và các Phác đồ đặc trị bệnh. Thái độ của người nhà: Bình tĩnh, tuyệt đối tuân thủ theo Y lệnh. Đoàn kết, tập trung lực lượng, phân chia công việc để tránh gây rối, chồng chéo và mất mát tình cảm ở những người ở lại...
Nhớ kỹ: Xin phác đồ điều trị bệnh, chăm sóc bệnh nhân sau khi ra viện; Hẹn tái khám, kiểm tra định kỳ, và tốt nhất tìm bác sỹ gia đình chăm sóc bệnh lý tim mạch; rèn luyện, tập vật lý trị liệu chống di chứng tổn thương não bộ và các biện pháp khác.
Chế độ dinh dưỡng hợp lý, tránh ăn mặn, hạn chế ăn thức ăn có nhiều mỡ động vật, nên ăn nhiều trái cây, rau quả. Các chế độ ăn được khuyên thường là Chế độ ăn Địa Trung Hải ( Ăn nhiều cá, hải sản, rau củ quả, dầu thực vật, sữa chua, rượu vang, hạn chế thịt đỏ... ) hay cách ăn của người Nhật Bản ( Ăn cá, rau biển, rau quả, đậu nành, gạo, trái cây, trà xanh... ăn đồ tươi, tại nhà; ăn nhẹ nhiều bữa, ít xào nấu, ăn sáng nhiều tối ít... ) để đảm bảo sức khoẻ, không bị cao huyết áp đọt ngột và phòng tránh những bệnh dễ dẫn đến đột quỵ như cao huyết áp, tiểu đường, béo phì...
Không hút thuốc lá. Hút thuốc lá cũng như bệnh béo phì sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh đột quỵ lên 1.5 - 2 lần.
Kiểm soát huyết áp. Khoảng 50% người bị đột quỵ là do tăng huyết áp. Trung bình cứ giảm huyết áp được 5mmHg sẽ giảm được 10% nguy cơ bị đột quỵ.
Uống thường xuyên một số thuốc phòng bệnh như: Aspirin, Clopidogrel (Plavix) và Dipyridamole là những thuốc có tác dụng chống kết tập tiểu cầu vì vậy, sẽ ngăn được các cục huyết khối nhỏ, khởi nguyên của các cục máu đông gây thuyên tắc mạch máu....
Sử dụng thường xuyên Aspirin với liều dùng 75mg - 300mg mỗi ngày sẽ giúp giảm nguy cơ đột quỵ tim và não. Clopidogrel và Dipirdamole cũng là những loại thuốc có công dụng tương tự.
Bổ sung thực phẩm bảo vệ sức khỏe như Tinh dầu thông đỏ Edally Pine Needle Capsule để loại bỏ mỡ máu và xơ vữa mạch máu, phá hủy và ngăn ngừa hình thành cục máu đông, bảo vệ thành mạch, tăng cường lưu thông máu…
Link sản phẩm: https://edallyhanquoc.vn/tinh-dau-thong-do-edally-han-quoc-new.html
Sau khi được cấp cứu và điều trị kịp thời thì người bệnh nên quay trở lại cuộc sống bình thường như trước và từ bỏ những thói quen không tốt cho sức khoẻ như hút thuốc, uống rượu để tránh bị tái phát đột quỵ.
Một số việc nên làm: Tập thể dục thể thao: Nên tập thể dục, thể thao theo sở thích và khả năng của mình, tránh tập luyện quá múc gây stress. Trong cuộc sống cần hóa giải các stress tồn tại kéo dài về trí tuệ, cảm xúc, hoạt động của cơ thể cần phối hợp cân bằng, việc làm phù hợp để hạn chế tình trạng bệnh.
Hoạt động tình dục: Các rối loạn thường gặp là giảm ham muốn, yếu hơn hoặc đôi khi lại rối loạn theo kiểu ngược lại... cần có thời gian để cân bằng lại ( Nhưng, phần lớn người bệnh là lớn tuổi, nên các rối loạn này chỉ nói đến ở bệnh nhân còn trẻ...).
Đột quỵ và Rượu: Là một chất kích thích thần kinh, bia rượu không thể thiếu trong cuộc sống con người. Với bệnh nhân đột quỵ, kiêng rượu là hàng đầu, cấm tuyết đối uống say. Ngoài ra, Rượu có thể tác động xấu đến tác dụng của một số thuốc phòng ngừa đột quỵ. Tuy nhiên, theo một số nghiên cứu, uống một vài cốc nhỏ rượu vang hàng ngày lại có tác dụng rất tốt cho tim mạch và tiêu hóa.
Tái hòa hợp cộng đồng và lao động trở lại: Tuỳ thuộc vào yêu cầu, tính chất công việc, tùy thuộc những di chứng còn lại sau đột quỵ... để quyết định thời gian trở lại làm việc.
Nên lượng sức, giảm khối lượng công việc, thay đổi phù hợp với từng cá thể, từng việc để tránh stress dẫn đến tái phát đột quỵ. Nên tránh lái xe trong khoảng thời gian mới ra viện và khi còn uống thuốc trị bệnh, lý do là tác dụng phụ của một số thuốc gây mệt mỏi, yếu cơ, ảo giác... lái xe không an toàn cho bản thân và cộng đồng lân cận.
Sử dụng mỗi ngày 2 viên Tinh dầu thông đỏ Hàn Quốc Edally Pine Neede Capssule để làm sạch mạch máu và tăng cường lưu thông máu.
Trên đây là một số kiến thức cơ bản nhất về đột quỵ. Mong được cộng đồng biết và cùng phổ biến để có thể áp dụng trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người./.
Mọi thông tin chi tiết về sản phẩm cũng như chính sách đại lý xin vui lòng liên hệ edallyhanquoc.vn qua Hotline/Zalo: 0902.158.663 để được tư vấn và hỗ trợ nhanh nhất.
Chia sẻ bài viết:
건강미인의 에너지 비법
TRUNG TÂM TINH DẦU THÔNG ĐỎ HÀN QUỐC EDALLY BH
BT 09 - KĐT Resco, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam
Phố Tăng, Đông Hưng, Thái Bình, Việt Nam
0902.158.663 / 0908.062.668
edallyhq@gmail.com