Với những lợi ích đa dạng mà nó mang lại cho làn da, niacinamide đã trở thành một trong những hoạt chất được ưa chuộng nhất trong ngành công nghiệp làm đẹp. Bài viết này sẽ đi sâu vào cơ chế hoạt động của niacinamide và chỉ định của nó trong da liễu.
Niacinamide hay còn gọi là Vitamin B3 (nicotinamide, nicotinic acid amide) là dạng pyridine 3 carboxylic acid amide của niacin. Nó là một loại vitamin hòa tan trong nước và không được lưu trữ trong cơ thể. Nguồn chính của vitamin trong chế độ ăn uống là ở dạng nicotinamide, axit nicotinic và tryptophan. Cụ thể niacin có trong thịt, gan, rau lá xanh, lúa mì, yến mạch, dầu hạt cọ, các loại đậu, nấm men, nấm, các loại hạt, sữa, cá, trà và cà phê.
Niacinamide được thấy trong thực phẩm như một phần của pyridine nicotinamide adenine dinucleotide (NAD - là một coenzyme có trong tất cả các tế bào sống. Đây là một chất có lực khử mạnh, tham gia các phản ứng oxy hóa khử trong tế bào. Chất này được sinh ra ở giai đoạn đường phân hoặc pha sáng của quang hợp) và nicotinamide adenine dinucleotide phosphate (NADP - là một đồng yếu tố được sử dụng trong các phản ứng đồng hóa, như tổng hợp lipid và axit nucleic, cần NADP làm chất khử) trong các mô động thực vật. Sau khi các co-enzyme tách ra, niacinamide được hấp thụ gần như hoàn toàn ở ruột non. Sau khi hấp thụ, niacinamide được lưu trữ dưới dạng NAD trong gan và bài tiết xảy ra qua thận. Tryptophan được chuyển hóa thành niacinamide thông qua con đường kynurenine-anthranilate trong gan. Do đó, tryptophan có thể đáp ứng yêu cầu về axit nicotinic trong chế độ ăn.
Niacinamide chủ yếu tham gia vào quá trình chuyển hóa năng lượng tế bào, sửa chữa DNA và điều hòa quá trình phiên mã.
Niacinamide có nhiều công dụng trong việc điều trị rối loạn da liễu. Dưới đây là một số công dụng chính của Niacinamide trong điều trị các vấn đề liên quan đến da:
Vai trò chống viêm và kìm tiết bã nhờn của niacinamide đóng một vai trò trong việc sử dụng nó như một công thức bôi ngoài da. Sự xâm nhập của vi khuẩn propionobacterium acnes gây ra sự sản sinh IL-8 trong các tổn thương do mụn trứng cá. IL-8 là một chemokine có hoạt tính phân bào trong tế bào sừng và cũng tham gia vào quá trình hóa học của bạch cầu trung tính. Trong tổn thương do mụn trứng cá, còn có sự hoạt hóa của các yếu tố phiên mã NF-κB (yếu tố nhân kappa-NF-KB là một phức hợp protein sản xuất cytokine ) và protein hoạt hóa 1 (AP-1), bị ức chế bởi niacinamide thông qua enzyme ức chế ADP ribose polymerase-1 (PARP-1). Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi có đối chứng, 160 bệnh nhân bị mụn viêm vừa và chủ yếu đã được dùng gel niacinamide 4% hoặc gel erythromycin 4% hai lần mỗi ngày trong 8 tuần. Cả hai nhóm đều báo cáo sự thoái triển tương tự của các tổn thương viêm nhưng nhóm được điều trị bằng gel niacinamide 4% đã cải thiện đáng kể tình trạng tiết bã nhờn. Một thử nghiệm ngẫu nhiên khác, đối chứng với giả dược, mù đôi với 130 bệnh nhân cho thấy rằng kem dưỡng ẩm niacinamide 2% làm giảm đáng kể tỷ lệ bài tiết bã nhờn khi so sánh với kem dưỡng ẩm giả dược. Shalita và cộng sự thấy giảm sẩn viêm ở 82% những người được điều trị với 4% niacinamide sau 8 tuần điều trị. Dos và cộng sự báo cáo rằng clindamycin phosphate 1% và niacinamide gel 4% đều có hiệu quả như nhau và cao trong điều trị mụn trứng cá mức độ trung bình.
Chất làm ẩm có chứa niacinamide đã được chứng minh là có hiệu quả trong điều trị viêm da dị ứng. Trong viêm da dị ứng, có sự giảm ceramides, tăng mất nước qua biểu bì (TEWL) và suy yếu hàng rào bảo vệ da. Một nghiên cứu trong ống nghiệm cho thấy niacinamide làm tăng 2-3 lần axit béo tự do và tăng 1,5 lần cholesterol. Trong bệnh viêm da dị ứng, có sự điều tiết aquaporin 3 mã hóa các kênh thấm nước, dẫn đến tăng mất nước, chất này được ngăn chặn bởi niacinamide. Trong một nghiên cứu trên 28 bệnh nhân viêm da dị ứng, niacinamide hoạt động tốt hơn so với petrolatum trắng trong việc giảm TEWL. Trong một nghiên cứu so sánh bên phải bên trái trên 12 bệnh nhân nam bị khô da, sử dụng niacinamide 2% hai lần mỗi tuần trong bốn tuần làm giảm TEWL 27% so với phương tiện và tăng axit béo tự do lớp sừng và ceramide lần lượt là 67% và 34%. Một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng khác được thực hiện trên 292 người tham gia nhận niacinamide 500 mg hai lần mỗi ngày hoặc giả dược trong 12 tháng. Kết quả cho thấy TEWL giảm 6-7% so với giả dược trên mặt và tay chân.
Niacinamide làm tăng sản xuất collagen trong nuôi cấy nguyên bào sợi và giảm lượng glycoaminoglycoside (yếu tố này có thể ức chế sản xuất protein) ở da tăng lên do da bị tổn thương do ánh sáng.
Niacinamide cũng làm tăng sản xuất các protein biểu bì keratin, filaggrin và involucrin (các yếu tố này góp phàn làm tăng gắn kết tế bào). Quá trình glycation giữa protein và đường dẫn đến hình thành các sản phẩm liên kết chéo làm giảm chức năng của protein. Vì niacinamide là một tiền chất của chất chống oxy hóa NADPH, nó có tác dụng chống phân giải, do đó ngăn ngừa những phản ứng tiêu cực đó trên da. Trong một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên bị mù đôi, sử dụng cho từng nửa khuôn mặt, kem 5% niacinamide và mỹ phẩm dưỡng ẩm thông thường không chứa niacinamide ở 30 phụ nữ Nhật Bản trên khuôn mặt trong 8 tuần. Đã giảm đáng kể các nếp nhăn và sự thô ráp của da với niacinamide.
Vì niacinamide ức chế sự chuyển melanosome từ tế bào hắc tố sang tế bào sừng nên nó được sử dụng như một chất làm sáng da. Một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên, mù đôi với 202 bệnh nhân cho thấy rằng công thức tại chỗ chứa 2% N-acetyl glucosamine và 4% niacinamide làm giảm đáng kể diện tích có thể phát hiện của các đốm trên khuôn mặt và sự xuất hiện của sắc tố so với công thức dưỡng không chứa niacinamide.
Giả thuyết được đề xuất đằng sau việc sử dụng niacinamide trong các bệnh nổi mụn nước tự miễn dịch là tác dụng chống viêm của niacinamide. Nó ức chế các cytokine như IL-1β, IL-6, IL-8, TNF. Việc sử dụng niacinamide được nghiên cứu nhiều nhất là trong pemphigoid bóng nước. Một báo cáo trường hợp cho thấy đơn trị liệu niacinamide với liều 1,5 g / ngày là một phương pháp điều trị hiệu quả trong bệnh pemphigoid bóng nước khu trú.
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, đã so sánh niacinamide 500 mg ba lần mỗi ngày cộng với tetracycline 500 mg bốn lần một ngày với prednisone 40 đến 80 mg một ngày ở 18 bệnh nhân bị pemphigoid bóng nước. Trong nhóm niacinamide và tetracycline, 5 trong số 12 bệnh nhân có đáp ứng hoàn toàn, so với một trong 6 bệnh nhân ở nhóm prednisone. Các kết quả chỉ ra hiệu quả đáng kể của liệu pháp niacinamide và tetracycline so với prednisone ở một số bệnh nhân được chọn. Đã giảm tác dụng phụ ở nhóm niacinamide và tetracycline. Trong một thử nghiệm đối chứng, mù đôi khác ở tám bệnh nhân pemphigus, 60 tổn thương được chọn ngẫu nhiên với gel niacinamide 4% hoặc gel giả dược trong 30 ngày. Người ta thấy rằng chỉ số biểu mô trung bình đối với các tổn thương da khi nhận niacinamide cao hơn đáng kể. Có nhiều trường hợp báo cáo khác nhau về việc sử dụng thành công niacinamide và tetracycline trong các bệnh rối loạn phồng rộp tự miễn dịch khác bao gồm pemphigoid cicatricial, lichen planus pemphigoides, viêm da herpetiformis và immunoglobulin A bệnh da bóng nước. Do đó, niacinamide có thể được sử dụng như một thuốc thay thế steroid.
Enzyme PARP-1, bị ức chế bởi niacinamide, có liên quan đến sự lão hóa, lão hóa và ung thư của tế bào. Sự kích hoạt quá mức của PARP-1 bởi tia UV dẫn đến sự suy giảm NAD của tế bào, tiếp tục gây ra sự thất bại đường phân dẫn đến hoại tử tế bào. Niacinamide bổ sung năng lượng tế bào vì nó là tiền chất của NAD và NADP. Thứ hai, nó ngăn chặn sự kích hoạt quá mức của PARP-1 bằng phản hồi tiêu cực, do đó ngăn chặn sự lão hóa của tế bào. Bên cạnh đó, niacinamide bảo vệ chống lại sự ức chế miễn dịch gây ra bởi tia UVA và UVB. Trong một thử nghiệm lâm sàng ở giai đoạn 3, việc sử dụng niacinamide 500 mg hai lần mỗi ngày đã làm giảm đáng kể số lượng các trường hợp ung thư da không hắc tố và dày sừng hoạt hóa mặc dù tác dụng biến mất sau 6 tháng sau khi ngừng niacinamide. Đây là một lĩnh vực nghiên cứu sâu hơn nhưng niacinamide có thể chứng minh có lợi trong việc ngăn ngừa ung thư da.
Nicotinamide được đặt tên là PP factor hoặc Vitamin PP do vai trò của nó trong điều trị bệnh pellagra(bệnh bao gồm các biểu hiện chính như viêm da, sa sút trí tuệ và tiêu chảy) và lần đầu tiên được sử dụng trên lâm sàng vào năm 1937. Pellagra được đặc trưng bởi bộ ba tiêu chảy, viêm da và sa sút trí tuệ. Pellagra gây ra do sự thiếu hụt niacin ở tế bào, do chế độ ăn uống không đủ cung cấp niacin và tryptophan, chủ yếu gặp ở những người nghiện rượu mãn tính và ở những bệnh nhân mắc bệnh đường tiêu hóa hoặc rối loạn tâm thần nặng. Nguyên nhân hiếm gặp là do khối u carcinoid đang hoạt động và bệnh Hartnup, điều trị bằng isoniazid, 6-mercaptopurine hoặc 5-fluorouracil. Những thay đổi trên da bao gồm ban đỏ và đóng vảy trên những vùng da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời với vết mọc “hình con bướm” trên mặt và một vết nổi rõ ràng ở phía trước cổ (“vòng cổ của Casal”). Niacinamide uống ban đầu là 100-300 mg mỗi ngày với 3-4 liều cho đến khi cải thiện các triệu chứng cấp tính, sau đó giảm dần xuống còn 50 mg trên ngày. Niacinamide uống được ưa thích hơn axit niacin / nicotinic vì nó không gây đỏ mặt, ngứa và rát thường thấy khi uống niacin với liều lượng lớn.
Niacinamide có một vai trò tiềm năng trong điều trị bệnh vẩy nến vì tác dụng chống viêm, ức chế sự biểu hiện của ICAM-1 và MHC-II, và sản xuất IL-12, TNF-αvà IL-1. Sự kết hợp nicotinamide-methotrexate có thể tỏ ra vượt trội hơn so với methotrexate đơn thuần trong điều trị bệnh vẩy nến.
Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, sự kết hợp của calcipotriene và niacinamide tại chỗ có hiệu quả hơn một trong hai cách đơn trị liệu như một điều trị tại chỗ không steroid. Việc bổ sung niacinamide như một chất bổ trợ cho calcipotriene có thể nâng cao hiệu quả của calcipotriene khi được sử dụng để điều trị bệnh vẩy nến tại chỗ.
Niacinamide là một hợp chất an toàn và rẻ tiền với các tác dụng phụ không đáng kể. Nó được dung nạp tốt ngay cả với liều 1 g / ngày đến 3 g / ngày. Không có báo cáo nào về khả năng gây quái thai với niacinamide. Các tác dụng phụ nhỏ bao gồm buồn nôn, nôn, nhức đầu, mệt mỏi. Nó không gây ra tác dụng phụ giãn mạch như đỏ bừng, thay đổi huyết áp, nhiệt độ cơ thể hoặc mạch như đã thấy với niacin. Trong công thức bôi ngoài da, không gây kích ứng da, nhạy cảm với ánh sáng ở nồng độ từ 0,0001% đến 4%.
Các tài liệu và dữ liệu lâm sàng hiện có về niacinamide cho thấy rằng nó là một loại thuốc rẻ tiền, an toàn với tác dụng hữu ích như một loại thuốc hỗ trợ trong nhiều bệnh da liễu vì tác dụng chống viêm, chống oxy hóa, sửa chữa và bảo vệ hàng rào. Nó có thể được sử dụng cả dưới dạng thuốc bôi và thuốc uống mà không có bất kỳ tác dụng phụ lớn nào.
Dưới đây là danh sách các sản phẩm chứa thành phần Niacinamide được đánh giá là tốt nhất hiện nay, được Bệnh viện Da liễu TW khuyên dùng, đến từ các thương hiệu nối tiếng như Mỹ phẩm tái tạo phục hồi da chuyên sâu Edally EX và Mỹ phẩm thuần chay The Natue Book mà bạn có thể cân nhắc:
Mọi thông tin chi tiết về sản phẩm cũng như chính sách đại lý xin vui lòng liên hệ edallyhanquoc.vn qua Hotline/Zalo: 0902.158.663 để được tư vấn và hỗ trợ nhanh nhất.
Chia sẻ bài viết:
건강미인의 에너지 비법
TRUNG TÂM TINH DẦU THÔNG ĐỎ HÀN QUỐC EDALLY BH
BT 09 - KĐT Resco, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam
Phố Tăng, Đông Hưng, Thái Bình, Việt Nam
0902.158.663 / 0908.062.668
edallyhq@gmail.com