Với kết quả xét nghiệm máu, bác sĩ có thể nắm bắt được những thay đổi quan trọng trong cơ thể trước khi chúng biểu hiện thành bệnh tim, ung thư, tiểu đường hoặc tệ hơn.
Việc có các xét nghiệm máu thích hợp có thể cho phép bệnh nhân lên kế hoạch cho cho việc phòng chống bệnh tật dựa trên khoa học và có thể giúp kéo dài thêm nhiều thập kỷ sống khỏe mạnh. Dưới đây là những chỉ số xét nghiệm máu quan trọng nhất mà những người trên 40 tuổi nên thực hiện mỗi năm.
Công thức máu toàn bộ (CBC) sẽ cung cấp cho bạn và bác sĩ của bạn một cái nhìn nhanh về sức khỏe tổng thể của bạn. Xét nghiệm này cung cấp nhiều thông tin chẩn đoán để đánh giá tình trạng mạch máu, gan, thận và tế bào máu của bạn. Công thức máu toàn bộ đo số lượng, sự đa dạng, tỷ lệ phần trăm, nồng độ và chất lượng của tiểu cầu, hồng cầu và bạch cầu, do đó rất hữu ích trong việc sàng lọc các bệnh nhiễm trùng, thiếu máu não và các bất thường huyết học khác.
Bảng Công thức màu toàn bộ cũng cung cấp thông tin về tình trạng của hệ thống tim mạch của bạn bằng cách kiểm tra tổng lượng cholesterol, HDL (lipoprotein mật độ cao), LDL (lipo-protein mật độ thấp), triglyceride và tổng tỷ lệ cholesterol / HDL.
Bảng Công thức màu toàn bộ cũng đo lượng đường trong máu, điều này rất quan trọng để phát hiện hội chứng chuyển hóa giai đoạn đầu, bệnh tiểu đường và bệnh mạch vành. Trong bối cảnh bệnh tiểu đường đang gia tăng nhanh chóng, việc theo dõi mức đường huyết lúc đói cũng quan trọng như biết được lượng cholesterol của bạn.
Cũng bao gồm trong bảng công thức máu toàn bộ là chỉ số về các khoáng chất quan trọng như canxi, kali và sắt.
Fibrinogen là một yếu tố quan trọng góp phần vào quá trình đông máu. Nồng độ fibrinogen sẽ tăng lên để đáp ứng với tình trạng viêm mô. Vì sự phát triển của xơ vữa động mạch và bệnh tim về cơ bản là các quá trình viêm, mức độ fibrinogen tăng lên có thể giúp dự đoán nguy cơ bệnh tim và đột quỵ.
Mức fibrinogen cao không chỉ liên quan đến tăng nguy cơ đau tim mà còn được thấy trong các rối loạn viêm khác như viêm khớp dạng thấp và viêm cầu thận.
Trong một nghiên cứu được công bố gần đây từ Trung tâm Y tế Đại học Hồng Kông, các nhà nghiên cứu đã xác định mức độ tăng fibrinogen trong máu là một yếu tố nguy cơ độc lập gây tử vong ở bệnh nhân mắc bệnh động mạch ngoại vi. Khi không được điều trị, bệnh động mạch ngoại vi làm tăng nguy cơ đau tim, đột quỵ và tử vong. Nghiên cứu năm 2005 này đã theo dõi 139 người đàn ông và phụ nữ mắc bệnh động mạch ngoại biên trong thời gian trung bình sáu năm. Tử vong do mọi nguyên nhân tăng lên khi nồng độ fibrinogen tăng cao: 80% bệnh nhân có mức fibrinogen trên 340 mg/dL đã tử vong trong vòng ba năm. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng sự gia tăng fibrinogen là một yếu tố nguy cơ độc lập đối với tỷ lệ tử vong ở nhóm bệnh nhân này.
Trong số ra tháng 2 năm 2006 của Tạp chí Journal of Thrombosis and Haemostasis, các nhà nghiên cứu đã báo cáo mối liên quan giữa sự gia tăng nồng độ fibrinogen và nguy cơ hình thành huyết khối tĩnh mạch. Một nghiên cứu gần đây từ Hy Lạp đã phát hiện ra mối liên quan giữa mức fibrinogen cao hơn và sự hiện diện của nhiều tổn thương mạch vành ở những bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim cấp tính.
Sự kết hợp giữa thay đổi lối sống và hành vi - chẳng hạn như bỏ hút thuốc, giảm cân và hoạt động thể chất nhiều hơn - có thể giúp giảm mức fibrinogen xuống mức tối ưu (295-369 mg/dL). Các can thiệp dinh dưỡng cũng có thể giúp tối ưu hóa mức fibrinogen. Bổ sung dầu cá, niacin và axit folic, cùng với vitamin A và C cũng góp phần làm giảm mức fibrinogen.
Một trong những cách tốt nhất để đánh giá tình trạng glucose của bạn là xét nghiệm hemoglobin A1c (HbA1c). HbA1c tồn tại trong hồng cầu, có chức năng vận chuyển oxy và glucose đi nuôi cơ thể. HbA1c là một loại hemoglobin đặc biệt kết hợp giữa hemoglobin và đường glucose, nó đại diện cho tình trạng gắn kết của đường trên Hb hồng cầu. Chỉ số HbA1c giúp hiểu được nồng độ đường trong máu từ hai đến ba tháng gần nhất và là một yếu tố dự báo độc lập về nguy cơ bệnh tim ở những người có hoặc không mắc bệnh tiểu đường. Vì HbA1c không phụ thuộc vào những biến động thường xảy ra với việc theo dõi đường huyết hàng ngày, nên nó thể hiện một bức tranh chính xác hơn về việc kiểm soát lượng đường trong máu. Duy trì nồng độ hemoglobin A1c khỏe mạnh cũng có thể giúp bệnh nhân tiểu đường ngăn ngừa một số biến chứng của bệnh.
Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ khuyến nghị nên kiểm tra nồng độ HbA1c từ ba đến sáu tháng một lần để theo dõi lượng đường trong máu ở những bệnh nhân điều trị bằng insulin và những bệnh nhân có mức đường huyết cao.
Trong một nghiên cứu gần đây, 1.340 bệnh nhân tiểu đường loại I đã được theo dõi trong tổng cộng 17 năm. Bệnh nhân được chỉ định ngẫu nhiên để kiểm soát bệnh tiểu đường chuyên sâu hoặc thông thường. Trong nhóm được điều trị tích cực, nồng độ hemoglobin A1C thấp hơn đáng kể và nguy cơ nhồi máu cơ tim, đột quỵ hoặc tử vong do bệnh tim mạch giảm 57%. Các liệu pháp dinh dưỡng như việc sử dụng các chất chiết xuất từ crom, quế và quả cà phê cũng có thể giúp tối ưu hóa mức hemoglobin A1c (dưới 4.5%).
Dehydroepiandrosterone (DHEA), một loại hormone do tuyến thượng thận sản xuất, là tiền thân của hormone sinh dục estrogen và testosterone. Nồng độ DHEA trong máu đạt đỉnh điểm ở độ tuổi 20 và sau đó giảm mạnh theo tuổi tác, giảm xuống còn 20-30% ở độ tuổi 70 đến 80. DHEA thường được gọi là hormone "chống lão hóa".
Gần đây, các nhà nghiên cứu ở Thổ Nhĩ Kỳ phát hiện ra rằng mức DHEA thấp hơn đáng kể ở nam giới có các triệu chứng liên quan đến lão hóa, bao gồm cả rối loạn cương dương. Mức độ lành mạnh của DHEA có thể hỗ trợ chức năng miễn dịch, mật độ xương, tâm trạng, ham muốn tình dục và thành phần cơ thể khỏe mạnh. Ngược lại, nồng độ DHEA tăng cao hơn bình thường có thể là dấu hiệu của tăng sản thượng thận bẩm sinh, một nhóm các rối loạn do suy giảm khả năng sản xuất glucocorticoid của tuyến thượng thận.
Bổ sung DHEA giúp làm tăng chức năng miễn dịch, cải thiện mật độ khoáng xương, tăng ham muốn tình dục ở phụ nữ, giảm mỡ bụng, bảo vệ não sau chấn thương thần kinh, và giúp ngăn ngừa bệnh tiểu đường, ung thư và bệnh tim.
Các liệu pháp tự nhiên hoặc bổ sung bằng thuốc có chứa prednenolone hoặc DHEA có thể giúp tối ưu hóa mức DHEA. Những người bị ung thư liên quan đến estrogen như ung thư vú hoặc ung thư tuyến tiền liệt không nên sử dụng DHEA.
Kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) là một loại protein được sản xuất bởi tuyến tiền liệt ở nam giới. Mức độ tăng cao có thể gợi ý phì đại tuyến tiền liệt, viêm tuyến tiền liệt hoặc ung thư tuyến tiền liệt. Mức PSA cũng có thể được sử dụng để theo dõi hiệu quả của các phác đồ điều trị đối với các bệnh liên quan tới tuyến tiền liệt.
Nồng độ PSA tăng cao không nhất thiết là dấu hiệu của ung thư tuyến tiền liệt và không phải lúc nào ung thư tuyến tiền liệt cũng có thể đi kèm với biểu hiện của PSA. Mức độ có thể tăng lên khi bị nhiễm trùng đường tiết niệu hoặc tuyến tiền liệt bị viêm. Hơn 15% nam giới có giá trị PSA từ 2,6 đến 4,0 ng / mL từ 40 tuổi trở lên bị ung thư tuyến tiền liệt, theo một nghiên cứu tầm soát ung thư tuyến tiền liệt được công bố năm 2005 trên Tạp chí Journal of Urology.
Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ khuyến nghị xét nghiệm PSA hàng năm cho nam giới bắt đầu từ 50 tuổi. Những người đàn ông có nguy cơ cao nên bắt đầu xét nghiệm PSA ở độ tuổi 40-45. Mức PSA tăng theo tuổi tác, ngay cả khi không có bất thường ở tuyến tiền liệt.
Một chế độ ăn uống lành mạnh kiểu Địa Trung Hải có thể bảo vệ chống lại ung thư tuyến tiền liệt và các bệnh khác liên quan đến lão hóa.
Axit amin homocysteine được hình thành trong cơ thể trong quá trình chuyển hóa methionine. Mức homocysteine cao có liên quan đến việc tăng nguy cơ đau tim, gãy xương và giảm khả năng nhận thức, làm tăng nguy cơ mắc bệnh mạch vành.
Homocysteine cũng đã được công nhận là một yếu tố nguy cơ độc lập đối với gãy xương. Trong một nghiên cứu gần đây trên 1.267 đàn ông và phụ nữ với độ tuổi trung bình là 76, các nhà điều tra ở Hà Lan kết luận rằng mức homocysteine cao và nồng độ vitamin B12 thấp có liên quan đáng kể đến việc tăng nguy cơ gãy xương.
Tiết ra bởi tuyến yên, hormone kích thích tuyến giáp (TSH) kiểm soát sự bài tiết hormone tuyến giáp. Khi nồng độ TSH trong máu giảm xuống dưới mức bình thường, điều này cho thấy dấu hiệu của bệnh cường giáp và khi các giá trị trên mức bình thường, điều này cho thấy suy giáp.
Bởi vì các triệu chứng của sự mất cân bằng tuyến giáp có thể không đặc hiệu hoặc không có và có thể tiến triển chậm, và vì nhiều bác sĩ không thường xuyên kiểm tra chức năng tuyến giáp, những người bị cường hoặc suy giáp nhẹ có thể không được chẩn đoán kịp thời trong một thời gian. Khi tình trạng bệnh nhẹ không được chẩn đoán và chữa trị kịp thời có thể tiến triển nhanh thành các trạng thái bệnh lâm sàng. Đây là một kịch bản nguy hiểm, vì những người bị suy giáp và tăng cholesterol cũng như LDL trong huyết thanh có nguy cơ cao bị xơ vữa động mạch.
Suy giáp nhẹ có thể liên quan đến tăng cholesterol và rối loạn chức năng nhận thức, cũng như các triệu chứng không đặc hiệu như mệt mỏi, trầm cảm, không dung nạp lạnh, da khô, táo bón và tăng cân. Cường giáp nhẹ thường liên quan đến rối loạn nhịp tim, giảm mật độ khoáng của xương và các triệu chứng không đặc hiệu như mệt mỏi, sụt cân, không dung nạp nhiệt, căng thẳng, mất ngủ, yếu cơ, khó thở và tim đập nhanh.
Một nghiên cứu cho thấy mức TSH lớn hơn 2,0 mU/L làm tăng nguy cơ mắc bệnh suy giáp trong 20 năm. Trong khi một nghiên cứu khác cho thấy mức TSH lớn hơn 4,0 mU/L làm tăng nguy cơ đau tim ở phụ nữ cao tuổi. Gần đây, dữ liệu được công bố cho thấy suy giáp cận lâm sàng có liên quan đến tăng nguy cơ suy tim sung huyết ở người lớn tuổi có mức TSH từ 7,0 mU/L trở lên.
Đo TSH là xét nghiệm tốt nhất để đánh giá chức năng tuyến giáp. Hiện tại, Hiệp hội Tuyến giáp Hoa Kỳ khuyến nghị nên kiểm tra nồng độ TSH bắt đầu từ 35 tuổi, và sau đó 5 năm một lần. Nếu kết quả bất thường, đánh giá TSH kết hợp với nồng độ tri-iodothyronine (T3) và thyroxine (T4) trong máu có thể giúp hỗ trợ chẩn đoán xác định.
Các liệu pháp tự nhiên bằng dinh dưỡng hay bổ sung thực phẩm chức năng có chứa L-tyrosine, iốt và selen sẽ giúp cải thiện nồng độ TSH trong máu.
Testosterone được sản xuất trong tinh hoàn ở nam giới, trong buồng trứng ở phụ nữ và trong tuyến thượng thận của cả nam và nữ. Đàn ông và phụ nữ đều có thể bị ảnh hưởng đáng kể bởi sự suy giảm nồng độ testosterone xảy ra khi lão hóa.
Trong huyết thanh của cả nam giới và phụ nữ, ít hơn 2% testosterone thường được tìm thấy ở trạng thái tự do. Không giống như testosterone bị ràng buộc, dạng tự do của hormone này có thể lưu thông trong não và ảnh hưởng đến các tế bào thần kinh. Testosterone đóng những vai trò khác nhau ở nam giới và phụ nữ, bao gồm điều hòa khả năng sinh sản, ham muốn tình dục và khối lượng cơ. Ở nam giới, nồng độ testosterone tự do có thể được sử dụng để đánh giá xem liệu có đủ testosterone hoạt tính sinh học để bảo vệ khỏi béo bụng, suy nhược tinh thần, loãng xương và bệnh tim hay không. Ở phụ nữ, mức testosterone thấp có liên quan đến giảm ham muốn tình dục và sức khỏe, trong khi mức testosterone tự do cao có thể chỉ ra chứng rậm lông hoặc hội chứng buồng trứng đa nang.
Ở nam giới, nồng độ testosterone thường suy giảm theo tuổi tác, giảm xuống khoảng 65% so với mức thanh niên ở độ tuổi 75. Sự sụt giảm testosterone này là nguyên nhân một phần gây ra những thay đổi sinh lý đáng kể ở nam giới lớn tuổi. Trên thực tế, mức testosterone thấp có liên quan đến nhiều tình trạng sức khỏe bất lợi, bao gồm giảm ham muốn tình dục, hội chứng chuyển hóa, rối loạn cương dương, tăng mỡ bụng, mật độ xương thấp, trầm cảm, bệnh Alzheimer, bệnh tiểu đường loại II, và xơ vữa động mạch.
Ở phụ nữ, sau khi mãn kinh, mức độ testosterone ở phụ nữ giảm, đồng thời với sự suy giảm ham muốn tình dục, tâm trạng và sức khỏe nói chung. Mặc dù phụ nữ chỉ sản xuất một lượng nhỏ testosterone, nhưng bằng chứng chỉ ra rằng hormone quan trọng này giúp phụ nữ duy trì chức năng tình dục, cũng như sức mạnh và khối lượng cơ bắp.
Mức testosterone tối ưu ở đàn ông là 15-26.5 pg/mL và ở phụ nữa là 1.4-2.2 pg/mL.
Giống như testosterone, cả nam giới và phụ nữ đều cần estrogen cho nhiều chức năng sinh lý. Estradiol là dạng lưu thông chính của estrogen ở nam giới và phụ nữ. Đàn ông sản xuất estradiol với lượng nhỏ hơn nhiều so với phụ nữ; hầu hết estradiol được sản xuất từ testosterone và hormone steroid tuyến thượng thận, và một phần được sản xuất trực tiếp bởi tinh hoàn. Ở phụ nữ, estradiol được sản xuất trong buồng trứng, tuyến thượng thận và các mô ngoại vi. Mức độ estradiol thay đổi trong suốt chu kỳ kinh nguyệt và giảm xuống mức thấp nhưng không đổi sau khi mãn kinh.
Ở phụ nữ, nồng độ estradiol trong máu giúp đánh giá tình trạng mãn kinh và mãn dục. Mức độ gia tăng ở phụ nữ có thể cho thấy nguy cơ ung thư vú hoặc nội mạc tử cung tăng lên. Estradiol đóng một vai trò trong việc hỗ trợ mật độ xương khỏe mạnh ở nam giới và phụ nữ. Mức độ thấp có liên quan đến tăng nguy cơ loãng xương và gãy xương ở nam giới và phụ nữ. Nồng độ Estradiol tăng cao ở nam giới có thể đi kèm với phì đại tuyến vú, giảm ham muốn tình dục và khó đi tiểu.
Có thể cải thiện nồng đọ Estradiol bằng cách bổ sung các chất như DHEA, pregnenolone, đậu nành và lựu... Một số loại thuốc cần kê đơn như estrogen tổng hợp cũng có thể hữu ích đối với một số bệnh nhân thiếu hụt Estrogen.
Tham khảo các sản phẩm hỗ trợ sức khỏe tim mạch tại: https://edallyhanquoc.vn/thuc-pham-bao-ve-suc-khoe-edally-bh-han-quoc.html
Mọi thông tin chi tiết về sản phẩm cũng như chính sách đại lý xin vui lòng liên hệ edallyhanquoc.vn qua Hotline/Zalo: 0902.158.663 để được tư vấn và hỗ trợ nhanh nhất bạn nhé.
Chia sẻ bài viết:
건강미인의 에너지 비법
TRUNG TÂM TINH DẦU THÔNG ĐỎ HÀN QUỐC EDALLY BH
BT 09 - KĐT Resco, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam
Phố Tăng, Đông Hưng, Thái Bình, Việt Nam
0902.158.663 / 0908.062.668
edallyhq@gmail.com