Khi gặp người bị tai nạn ngạt nước, việc sơ cứu kịp thời và đúng cách có thể quyết định sự sống còn. Dưới đây là hướng dẫn chi tiết cách sơ cấp cứu khi gặp người bị tai nạn ngạt nướctheo các bước chuẩn y khoa:
Không kể đến các trường hợp như ngất, chấn thương trước khi ngã xuống nước, chết đuối có thể xảy ra trong bốn trường hợp sau:
Do ngạt nước: đó là trường hợp của những người không biết bơi ngã xuống nước.
Do ngất đột ngột khi mới tiếp xúc với nước: đó là trường hợp sốc kiểu điện giật có thể gọi là nước giật (hydrocution) mà Lartigue đã mô tả cặn kẽ.
Do lặn quá sâu dưới nước rồi ngạt.
Do bơi quá mệt có thể gọi là đuối nước, rồi ngất đi.
Cơ chế bệnh sinh của ngạt nước (chết đuối, suýt chết đuối) rất phức tạp, liên quan trực tiếp đến rối loạn hô hấp - tuần hoàn - chuyển hóa do tình trạng thiếu oxy cấp tính. Có thể tóm lược theo các bước sau:
Đóng thiệt hầu một cách đột ngột.
Thở ra và hít phải nước.
Ngừng thở.
Ngừng tim.
Các giai đoạn kéo dài 4 phút, những vẫn còn cứu sống được. Tử vong chắc chắn sau 10 phút, đó là tình trạng ngất tím.
Người bơi đang có tình trạng giãn mạch do phơi nắng, đang tiêu hóá (sau bữa ăn), đang vận động nhiều (thí dụ vừa đi bộ hoặc đi xe đạp từ xa đến bãi tăm).
Khi xuống nước, người đó đột ngột bị co mạch dữ dội làm tuần hoàn trở về tăng mạnh, gây ra ngất và bệnh nhân chìm luôn. Đó là tình trạng ngất trắng, một tai biến do không thích ứng.
Ngất trắng giống như tình trạng sốc nặng không gây ngừng tim ngay nhưng cũng có thể làm cho ngừng thở. Nếu may mắn lúc này nạn nhân được vớt lên và được cấp cứu ngay thì dễ có khả năng hồi phục vì phổi chưa bị sặc nước.
Lartigue cho rằng trong ngất trắng còn có vai trò cửa sốc thanh quản. Sốc này gây ra một tình trạng ngất vì phản xạ sinh ra do tiếp xúc đột ngột giữa nước và dây X, giải phẫu bệnh cũng có cho thấy tim phải giãn, tim trái co cứng.
Sau ngạt nước có hai rối loạn chính đe doạ tính mạng nạn nhân:
a. Giảm oxy máu do nhiều yếu tố:
Nước vào phế nang gây ra một màng nước ngăn cách sự khuếch tán oxy qua màng phế nang mao mạch.
Co thắt phế quản, co thắt động mạch phổi.
Tăng sức cản phổi.
b. Phù phổi cấp: có nhiều yếu tố gây phù phổi cấp:
Yếu tố thẩm thấu: nước mặn hay nước ngọt khi vào phổi đều có thể gây phù phổi cấp (tổn thương surfactant).
Tăng gánh đột ngột ở thất phải, tăng gánh ở tuần hoàn máu (tăng thể tích máu trở về).
Giảm oxy tổ chức ảnh hưởng đến thần kinh trung ương và cơ tim (rối loạn ý thức, rối loạn dẫn truyền và kích thích cơ tim).
Niêm mạc phế quản, phế nang bị kích thích do nước bẩn, do nước có nhiều Clo.
Các triệu chứng khi bị ngạt nước sẽ khác nhau tùy theo mức độ ngạt, lượng nước xâm nhập, thời gian ở dưới nước và tình trạng cấp cứu kịp thời hay không. Dưới đây là mô tả chi tiết:
1. Ngạt nước:
a. Sau 3 - 4 phút vùng vẫy, nạn nhân hít phải nước rồi ngừng thở sau đó ngừng tim.
Nạn nhân xanh tím (ngất tím): bọt hồng đầy mũi mồm
khi vớt lên thì trào ra.
b. Xét nghiệm máu thấy có:
Tình trạng tan máu nếu là nước ngọt.
Thay đổi thể tích máu: loãng máu nếu là nước ngọt, đặc máu nếu là nước mặn. Tuy nhiên dù là nước ngọt hay nước mặn cuối cùng nạn nhân thường cô đặc máu (hematocrit tăng, hồng cầu tăng).
c. Vài giờ sau khi sơ cứu, nếu không can thiệp sớm phù phổi cấp sẽ xuất hiện.
2. Sốc do ngạt nước hay nước giật: xuất hiện dưới ba hình thức:
Trường hợp nhẹ: cảm giác ớn lạnh, khó chịu, cảm giác co thắt ngực và bụng, buồn nôn, chóng mặt sau đó nhức đầu, mạch nhanh, nôn mửa, nổi mày đay kiểu dị ứng (với nước).
Bệnh có thể chuyển từ nhẹ sang nặng với các triệu chứng truy mạch, mày đay, ngất.
Ngất đột ngột trong khi bơi, ngất trắng kiểu ức chế thần kinh, nạn nhân chìm luôn không giãy giụa kêu cứu được một giờ. Đôi khi vừa dấn mình xuống nước, nạn nhân đã thấy cảm giác thay đổi, chóng mặt ù tai và thấy da đỏ, ngứa nhưng vẫn tiếp tục bơi nên bị ngất và chìm luôn.
Tóm lại chết đuối có thể bắt đầu bằng ngạt rồi ngất hoặc ngất rồi ngạt. Vì vậy về mặt xử trí cũng không có gì thay đổi.
3. Hội chứng sau khi ngạt nước
Sau khi đã thở lại và tim đã đập trở lại, nạn nhân còn bị đe doạ bởi nhiều biến chứng:
Giảm thân nhiệt.
Rối loạn thần kinh do mất oxy não như: lẫn lộn, giãy giụa, hôn mê, hội chứng bó tháp, co giật.
Phù phổi cấp, vì vậy khi bệnh nhân được đưa đến đơn vị cấp cứu, phải chụp phổi ngay. Phù phổi cấp dẫn đến suy hô hấp cấp tiến triển.
Truy mạch.
Thay đổi về các chất khí và kiềm toan máu đều rõ ràng: Sa2 giảm, pH máu giảm và toan hô hấp biểu hiện một tình trạng suy hô hấp cấp. Ngoài ra nạn nhân còn có toan chuyển hoá.
Các rối loạn nước và điện giải máu thường biểu hiện một tình trạng mất nước ngoài tế bào, hiện tượng đặc máu, dù là nạn nhân bị ngạt nước ngọt hay mặn. Nguyên nhân: nạn nhân thở nhiều, xuất tiết nhiều.
Tan máu, (thực ra ít gặp).
Đường máu (thường tăng).
Khi gặp người bị ngạt nước, việc xử trí kịp thời và đúng cách có thể cứu sống nạn nhân, hạn chế biến chứng nặng nề về hô hấp và thần kinh. Dưới đây là hướng dẫn chi tiết:
1. Hai phương châm cơ bản:
Sơ cứu tại chỗ, tích cực, đúng phương pháp.
Kiên trì cấp cứu trong nhiều giờ.
2. Các biện pháp chủ yếu xử trí nhằm:
Giải phóng đường hô hấp.
Đem lại oxy cho nạn nhân.
Chống các rối loạn tim phổi và chuyển hoá.
Cách xử trí cụ thể các giai đoạn của cấp cứukhi gặp người bị ngạt nước:
1. Xử trí tại chỗ người bị ngạt nước:
Xử trí tại chỗ là quan trọng nhất quyết định tiên lượng của nạn nhân, nếu xử trí chậm, trung tâm cấp cứu sẽ đối phó với một tình trạng mất não.
a. Theo kinh nghiệm về cấp cứu ngạt nước, phải cấp cứu ngay ở dưới nước:
Nắm tóc nạn nhân để nhô đầu lên khỏi mặt nước, tát 2 - 3 cái thật mạnh vào má miệng, rồi tiến hành hô hấp miệng - miệng. Nếu có ngừng tim (không có mạch bẹn) phải bóp tim ngoài lồng ngực.
Động tác dốc ngược "nạn nhân": chỉ có tác dụng khai thông vùng họng và miệng không nên thực hiện ở người lớn và kéo dài quá 1 phút ở trẻ em.
Cần tiến hành hô hấp miệng - miệng và bóp tim ngoài lồng ngực cho đến khi kíp cấp cứu đến hoặc cho đến khi tim đập lại và hoạt động hô hấp trở lại.
b. Khi kíp cấp cứu đã đến:
Có thể thay hô hấp miệng - miệng bằng bóng Ambu sau khi đặt canun Guedel hay Mayo và hút đờm dãi, hút nước ở dạ dày.
Nếu tình trạng thiếu oxy đã bớt và nếu người cấp cứu có kinh nghiệm, thì có thể đặt ống nội khí quản, bóp bóng và cho thở oxy.
Chích máu ngay tại chỗ: chích máu có tác dụng gây phản xạ kích thích hô hấp và giải quyết vấn đề huyết động (tuần hoàn trở về ứ đọng, tăng áp lực động mạch phổi) nhưng chỉ chích máu khi tình trạng huyết áp còn tốt. Chỉ định chích máu nên thực hiện sớm khi:
Nạn nhân vẫn hôn mê sau khi hồi sức tích cực.
Có các biểu hiện báo hiệu, các biến chứng muộn sắp xảy ra như: khạc bọt màu đỏ, khó thở, giãy giụa, sốt, đe doạ phù phổi cấp (rales ẩm, thở nhanh, cánh mũi phập phồng, xanh tím). Ở đây có thể cân nhắc đến vấn đề ngất trắng và ngất tím:
Nếu mặt và người nạn nhân trắng bệch hay truỵ mạch thì không nên chích máu. Chích máu phải nhanh gọn (bằng dao cắt tĩnh mạch) và nhiều. Ở người lớn phải rút 350 - 450mL máu trong 5 phút. Trước khi chỉ định chích máu nên cân nhắc việc dùng furosemid (2-4 ống).
2. Vấn đề vận chuyển người bị ngạt nước:
Vấn đề vận chuyển đến một đơn vị hồi sức có trang bị đầy đủ được đặt ra khi:
Bệnh nhân đã thở lại, giãy giụa, kêu la.
Bệnh nhân vẫn hôn mê nhưng đã có mạch và nhịp thở. Tuy nhiên nếu điều kiện vận chuyển khó khăn, đơn vị hồi sức ở xa nên chích máu, đặt ống nội khí quản, bóp bóng trước khi vận chuyển. Trong lúc vận chuyển vẫn phải tiếp tục hồi sức.
3. Tại bệnh viện hoặc trung tâm cấp cứu:
Cấp cứu người bị ngạt nước tại bệnh viện hoặc trung tâm cấp cứu có nhiều tình huống:
Nếu bệnh nhân vẫn chưa hồi tỉnh hẳn, phải bóp bóng: Ambu cho thở oxy rồi tiến hành đặt ống nội khí quản, hô hấp nhân tạo bằng máy.
Chống rung tim, truy mạch và phù phổi cấp (lasix, chích máu sớm nếu áp lực tĩnh mạch trung tâm tăng quá 10cm nước).
Điều chỉnh thăng bằng kiềm toan, nước và điện giải máu: Cần chú ý đến tình trạng mất nước ngoài tế bào, cô đặc máu sau ngạt nước, nhất là trong những ngày sau. Tuy nhiên khi truyền dịch phải cẩn thận, dựa vào áp lực tĩnh mạch trung tâm, đề phòng truyền dịch quá nhanh sẽ gây ra phù phổi cấp.
Nên chụp phổi để theo dõi phù phổi cấp và bội nhiễm.
Nếu bệnh nhân không tím và bắt đầu tỉnh: chỉ cần hút đờm dãi, thở oxy mũi, theo dõi 48 giờ. Nếu tình trạng suy hô hấp nặng lên, xanh tím, phải đặt ống nội khí quản, hút đờm dãi, thở máy có PEEP.
Nếu bệnh nhân không tỉnh. Pa0 vẫn thấp thì phải cân nhắc làm tim phổi nhân tạo (ECMO).
Tham khảo các sản phẩm chăm sóc sức khỏe chính hãng giúp phục hồi cơ thể sau khi bị ngạt nước tại: http:// https://edallyhanquoc.vn/thuc-pham-bao-ve-suc-khoe-edally-bh-han-quoc.html
Mọi thông tin chi tiết về sản phẩm cũng như chính sách đại lý xin vui lòng liên hệ edallyhanquoc.vn qua Hotline/Zalo: 0902.158.663 để được tư vấn và hỗ trợ nhanh nhất.
Chia sẻ bài viết:
건강미인의 에너지 비법
TRUNG TÂM TINH DẦU THÔNG ĐỎ HÀN QUỐC EDALLY BH
BT 09 - KĐT Resco, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam
Phố Tăng, Đông Hưng, Thái Bình, Việt Nam
0902.158.663 / 0908.062.668
edallyhq@gmail.com